Mã Đằng

Mã Đằng
Tự Thọ Thành (寿成)
Thông tin chung
Chức vụ Thái thú Tây Lương
Sinh 154
Phù Phong, Mậu Lăng, Thiểm Tây
Mất 212

Mã Đằng (chữ Hán phồn thể: 馬騰, chữ Hán giản thể: 马腾; 154-212), tên tự là Thọ Thành (寿成), là một tướng lĩnh và chư hầu quân phiệt vào cuối thời nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, lực lượng quân phiệt của ông cát cứ ở vùng đất Tây Lương cùng với Hàn Toại. Ông đã tham gia các cuộc chiến tranh giành giữa quân phiệt cuối thời Đông Hán. Mã Đằng là cha của Mã Siêu, danh tướng thời Đông Hán và là một trong Ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán.

Thân thế

Mã Đằng tự là Thọ Thành, là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện – công thần thời Hán Quang Vũ Đế. Ông chào đời tại tại Phù Phong, Mậu Lăng, thuộc Thiểm Tây.

Tam Quốc chí cho biết:[1] Cha Mã Đằng là Mã Túc, tự Tử Thạc sống thời Hán Hoàn Đế, làm quan huyện úy các huyện Lan Can, Thiên Thủy (Thiên Thủy Lan Kiền úy), sau đó vì mắc tội nên bị mất chức quan này. Mã Túc lưu lạc đến Lũng Tây, sống cùng với người Khương. Vì gia cảnh bần hàn, không có vợ con nên ông phải lấy vợ người Khương và sinh ra Mã Đằng.

Vì sinh trưởng trong một gia đình quý tộc đã sa sút, có một người cha lưu lạc, gia cảnh bần hàn nên Mã Đằng thuở nhỏ nghèo hèn không có một chút sản nghiệp hay tài sản gì. Nguồn thu nhập chính của ông đó là bằng sức lao động của mình ông thường này vào núi Chương (Chương sơn) để đốn củi sau đó gùi đến các thị thành dưới chân núi để kiếm tiền và lấy đó làm kế sinh nhai.

Mặc dù xuất thân trong hoàn cảnh gia đình sa sút nhưng ông vẫn là dòng dõi cao quý, chính vì vậy ông có ngoại hình khác người như: "mình cao hơn tám thước, thân thể vạm vỡ, mặt mũi kỳ dị khác thường" đồng thời ông có nhân cách, khí độ cao quý với "tính nết hiền hậu, được mọi người kính nể".

Tam Quốc diễn nghĩa cũng thống nhất chép giống chính sử rằng Mã Đằng mình cao tám thước, tướng mạo hùng dũng, tính nết hiền hậu, ai cũng kính trọng.[2]

Tam Quốc chí cũng cho biết vì dung mạo khác thường và khí độ hiên ngang này mà sau đó khi có chiến loạn, ông đã tình nguyện gia nhập quân đội để dẹp loạn và "người ở Châu quận thấy Đằng khác thường, cho làm Tòng sự, để cai quản binh lính". Đồng thời sau này con trai trưởng của ông là Mã Siêu cũng có một dung mạo đẹp đẽ và được người đời xưng tặng là "Cẩm Mã Siêu".

Chinh chiến

Tòng quân và thăng tiến

Cuộc đời chinh chiến của ông bắt đầu khi ông còn trẻ. Cuối thời Hán Linh Đế, vùng Lương Châu có biến loạn. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc Thứ sử Lương châu là Cảnh Bỉ sử dụng thuộc hạ của mình để cai trị trong vùng, nhưng người này lại là "kẻ gian hoạt" nên đã gây bất bình trong dân chúng. Người dân trong vùng này đã kết hợp cùng các tộc người Đê, Khương đứng lên nổi dậy chống lại chính sách của địa phương.

Chính quyền vùng Lương Châu lập tức chiêu mộ những thanh niên mạnh khoẻ xung vào quân ngũ, để đánh dẹp loạn. Lúc đó, Mã Đằng ra ứng mộ tình nguyện tham gia quân đội. Nhà tuyển trạch thấy Đằng khác thường, cho làm Tòng sự, để cai quản binh lính.

Trong những cuộc dẹp loạn, Mã Đằng đã lập được công lớn vì vậy Mã Đằng được thăng từ Tòng sự lên làm Quân Tư mã dưới trướng của Cảnh Bỉ. Sau đó chính quyền xem xét công lại thấy chưa xứng đáng nên mới đổi làm Thiên tướng quân, sau đó tiếp tục thăng chức lên Chinh Tây tướng quân, thường đóng quân ở khoảng Thiên, Lũng[3] và đến giữa niên hiệu Sơ Bình, được bái làm Chinh Đông tướng quân.[1]

Xây dựng lực lượng

Trong thời gian Mã Đằng được thăng tiến, ông cũng đã bắt đầu tập hợp lực lượng, xây dựng cơ nghiệp riêng cho mình. Ông đã ý thức được việc phụ thuộc vào chính quyền nhà Hán sẽ gây cho mình gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng cơ nghiệp.

Thời gian Mã Đằng là Chinh Tây tướng quân, bấy giờ, ở Tây châu thiếu thốn lương thực trầm trọng, Mã Đằng dâng biểu báo cáo tình hình binh lương rất thiếu thốn đồng thời xin lấy lương thảo ở Trì Dương, rồi chuyển đến đóng binh ở bờ đê phía đầu thành Trường Bình.

Tướng quân Vương Thừa đang đóng quân ở đây lo sợ sự hiện diện của lực lượng quân đội của Mã Đằng sẽ uy hiếp trực tiếp đến bản thân ông ta nên đã bất ngờ tấn công doanh luỹ của Mã Đằng. Khi đó, Mã Đằng vì bất ngờ nên không phòng bị, chính vì thế thua trận và phải bỏ chạy về phía tây.

Rút kinh nghiệm từ thất bại đó, ông đã tập hợp lực lượng tại chỗ ở xứ Tam Phụ[4] để khởi sự, đóng trú cát cứ, "không phục tùng phương Đông[5] nữa". Không những vậy, ông còn kết nghĩa anh em với Thái thú Tây Kinh là Trấn Tây tướng quân Hàn Toại ở vùng này để tạo thế liên minh, tăng cường lực lượng.

Khởi sự và xâm nhập Trường An

Tướng Tây Lương là Hàn Toại và Biện Chương khởi binh ở Tây châu, cát cứ chống lại triều đình. Năm 186, Hàn Toại mang vài chục vạn quân đánh quận Lũng Tây, thu hàng thái thú Lý Tương Như rồi cùng nhau đánh giết Cảnh Bỉ. Cảnh Bỉ chết, Mã Đằng thiết lập liên minh với Hàn Toại.[6]

Có Mã Đằng tham gia, lực lượng Hàn Toại càng mạnh. Năm 188, ông cùng Hàn Toại mang quân bao vây Trần Thương.[7] Hán Linh Đế sai Hoàng Phủ TungĐổng Trác huy động rất nhiều quân đến mới giải vây được. Mã Đằng và Hàn Toại rút quân về.

Năm 189, Hán Linh Đế chết, Hán Thiếu Đế lên thay. Thái thú Tây Lương là Đổng Trác được Hà Tiến triệu vào Lạc Dương dẹp hoạn quan, nhân Hà Tiến chết đã trở thành người thao túng nhà Hán.

Mã Đằng và Hàn Toại ở Lương châu bất bình với Đổng Trác bèn khởi binh chống lại. Lưu Yên làm Châu mục Ích châu ở Tây Xuyên có ý định ly khai triều đình, bèn hưởng ứng với Mã Đằng. Tam Quốc chí cho biết: "Hàn Toại và Mã Đằng khởi loạn ở Quan Trung mấy lần cùng cha Chương là Yên trao đổi tin tức qua lại".[8] Lưu Yên nhân đó ngầm sai người vào Trường An sai con là Lưu Đản và Lưu Phạm làm nội ứng. Việc bị lộ, Đổng Trác bèn giết chết Lưu Đảng và Lưu Phạm rồi mang quân ra đối địch, đánh tan liên quân Ích – Lương của Mã Đằng và Lưu Yên.[9]

Sau thất bại đó, Lưu Yên cố thủ ở Tây Xuyên, Mã Đằng theo lời dụ của Đổng Trác, quy phục nhà Hán, nhận lời cùng đánh các chư hầu Sơn Đông.[10]

Tam Quốc chí cho biết:[11] "Khi ấy Chinh Tây tướng quân Mã Đằng làm phản đóng binh ở Mi huyện, Yên phái Phạm cùng với Đằng kết mưu, dẫn binh tập kích Trường An. Mưu của Phạm bị tiết lộ, Phạm vội chạy về Hoè Lý, Đằng bại trận, phải lui về Lương Châu, Phạm bị giết tức thì, Trác lại bắt Đản đem hành hình.

Tam Quốc chí cũng dẫn lại ghi chép của Anh hùng ký: "Phạm từ Trường An trốn đến doanh trại của Mã Đằng, lại tới chỗ Yên xin binh. Yên phái Hiệu uý Tôn Triệu dẫn binh đến trợ giúp, bị đánh bại ở Trường An".

Đổng Trác bị các chư hầu do Viên Thiệu cầm đầu đánh tới Lạc Dương, thua chạy về Trường An. Năm 192, Mã Đằng cùng Hàn Toại khởi hành mang quân vào Trường An theo họ Đổng, thì Đổng Trác đã bị Lã Bố giết chết. Bộ tướng của Trác là Lý Thôi đánh đuổi Lã Bố, chiếm Trường An, giữ Hán Hiến Đế, phong cho Mã Đằng làm Chinh tây tướng quân sai giữ huyện Mi, Hàn Toại làm Trấn tây tướng quân sai giữ Kim Thành.

Sau đó Mã Đằng và Hàn Toại lại bất bình với Lý Thôi, mang quân tập kích Trường An nhưng bị Lý Thôi đánh bại, phải rút về Lương châu. Tam Quốc chí chép: "Sau Đằng đánh úp Trường An, bị thua trận phải trốn chạy, lui binh về giữ Lương Châu".

Xung đột với Hàn Toại

Khi cát cứ ở Lương Châu, Mã Đằng và Hàn Toại ban đầu rất thân thiết, sau lại cho bộ khúc thâm nhập đất của nhau, đổi thành thù địch. Mã Đằng đánh Hàn Toại, Hàn Toại bỏ chạy, sau đó lại họp binh quay lại đánh Mã Đằng, giết vợ con Mã Đằng, liên quân không hoà giải nổi.

Lý Thôi và Quách Dĩ thất bại, Hán Hiến Đế lọt vào tay Tào Tháo, được Tào Tháo đưa về Hứa Xương. Tào Tháo sai Tư lệ hiệu úy Chung Do và Lương châu mục Vi Đoan đến hòa giải hai bên, Chung Do viết thư cho ông và Hàn Toại, trình bày lợi hại, khuyên nên quy phục triều đình. Mã Đằng và Hàn Toại nghe theo và do có mọi người khuyên can, cả hai người lại giảng hòa như cũ.[1][12]

Mã Đằng được trưng tập về đóng binh ở Hoè Lý, đổi làm Tiền tướng quân, ban cho giả tiết, phong tước Hoè Lý hầu. Vùng đóng quân của Mã Đằng phía Bắc có rợ Hồ, phía Đông có quân Bạch kỵ, nhân lực dồi dào, Mã Đằng thực hiện chính sách vỗ về các dân tộc thiểu số để tập hợp lực lượng, nâng cao uy thế, cũng cố địa vị của mình "đãi kẻ sỹ tiến người hiền, xót thương cứu giúp dân chúng, đất Tam Phụ được yên ổn nên rất ái mộ Đằng".

Để đền đáp ơn của triều đình, Mã Đằng sai con cả là Mã Siêu cùng bộ tướng Bàng Đức theo Chung Do đến Bình Dương cùng đánh lực lượng nổi dậy của Quách Viện và Cao Can, giành được thắng lợi vang dội.[1][13]

Chết ở Hứa Xương

Năm 208, Tào Tháo muốn đi đánh Kinh châu nhưng không yên tâm về Mã, Hàn. Vì vậy trước khi xuống miền nam đánh Kinh châu, Tào Tháo đã nhân danh Hán Hiến Đế triệu Mã Đằng về Nghiệp Thành, ngoài mặt là phong chức nhưng kỳ thực để chia cắt với Hàn Toại. Tào Tháo sai Trương Ký đi dụ, bắt ông phải bỏ thuộc hạ mà thần phục. Mã Đằng đã hứa theo nhưng lại do dự. Trương Ký sợ Mã Đằng gây biến, bèn sai các huyện sắm đủ lương thực, đem hai nghìn thạch lương ra ngoài thành trao cho quân, làm như sắp điều quân đánh Lương châu[14]. Mã Đằng bất đắc dĩ phải đồng ý, chuyển cả gia thuộc hơn 200 nhân khẩu về kinh cư trú ở Nghiệp thành. Tào Tháo phong con ông là Mã Siêu làm Thiên tướng quân, Đô Đình hầu, cho thay cha quản lý quân đội dưới quyền.

Tam Quốc chí chép: "Năm Kiến An thứ mười, Đằng được vời về kinh làm Vệ uý, Đằng nghĩ mình tuổi đã cao, mới xin vào làm Túc vệ. Đến khi Đằng về kinh, nhân việc ấy mới xuống chiếu ban cho Siêu làm Thiên tướng quân, sai nắm quân sĩ trong doanh của Đằng. Lại phong cho em trai Siêu là Hưu làm Phụng xa Đô uý, em trai Hưu là Thiết làm Kỵ Đô uý, dời cả gia thuộc khỏi xứ ấy đến ở huyện Nghiệp, chỉ còn mình Siêu ở lại mà thôi[1]

Năm 211, Tào Tháo phái Tư Lệ hiệu uý Chung Do và Chinh tây Hộ quân Hạ Hầu Uyên đi đánh Trương Lỗ ở Đông Xuyên. Các tướng ở Tây Lương, trong đó có Mã Siêu và Hàn Toại, thấy Tào Tháo không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ rằng Tào Tháo sẽ đánh mình, bèn cùng nhau khởi binh chống Tào Tháo, chiếm cứ Đồng Quan. Tào Tháo khởi binh đi đánh Mã Siêu.

Năm 212, Tào Tháo dẹp xong Mã Siêu trở về Hứa Xương, nhân danh Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành.[15] Năm đó Mã Đằng 58 tuổi.

Như vậy, theo sử sách thì gia tộc của Mã Đằng hơn hai trăm nhân khẩu không ai trốn thoát, chỉ có Mã Siêu và Mã Đại rút về Lũng Thượng thì mới tránh được họa sát thân. Trong thời gian gần đây đã có nghiên cứu chứng minh được còn một số hậu duệ trực hệ của Mã Đằng, Mã Siêu là Mã Kháng chạy thoát được sang Ba Tư và định cư ở Armenia. Gia tộc Mamikonean của Mã Kháng có đóng góp nhất định trong lịch sử Armenia.[16]

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung mô tả Mã Đằng là trung thần nhà Hán, ít xảy ra những lần trở mặt qua lại với các thế lực chư hầu đương thời. Mã Đằng xuất hiện ở hồi 10 khi khởi binh đánh Trường An chống Lý Thôi, nhân danh giúp Hán Hiến Đế.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Mã Đằng được tái hiện là một nhân vật có tham vọng chính trị lớn. Mã Đằng vốn có "Chí khí lớn" không cam tâm "ở xó Tây Lương hẻo lánh" này mãi. Khi Đổng Trác chuyên quyền, ông ta cũng từng hội quân tham gia đánh Đổng Trác. Khi Lý Thôi, Quách Dĩ làm loạn triều chính, Mã Đằng cùng với Hàn Toại từng mang quân đánh vào kinh thành Trường An với danh nghĩa cứu vua Hán (vào năm 194 Công nguyên) nhưng trên thực tế là có ý định xâm nhập Trung Nguyên giống Đổng Trác. Trong lần này Mã Đằng đã mật kết với một số quan lại trong triều đình như Thị trung Mã Vũ, Gián nghị đại phu Chủng Thiệu, Tá Trung lang tướng Lưu Phạm làm nội ứng để đảo chính nhưng không thành.

Tiếp đến, trong sự kiện "Chiếu thư trong đai ngọc" (Y đái chiếu) Mã Đằng cùng với Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Lưu Bị, Cát Bình… cả thảy hơn mười người cùng nhau âm mưu ám hại Tào Tháo, để nhân đó dẫn quân thâm nhập Trung Nguyên. Mã Đằng vào triều, thấy Tào Tháo chuyên quyền, cùng Đổng Thừa, Lưu Bị bàn mưu giết Tào Tháo. Nhưng lúc đó, Lưu Bị đi xa đánh Viên Thuật, Đổng Thừa không làm nên việc gì, ở Tây Lương lại có nhiều việc nên Mã Đằng lại phải trở về Tây Lương. Sau này kế hoạch này thất bại, Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Cát Bình... Đều bị Tào Tháo giết chết.

Trước đó, khi Viên Thiệu tập hợp chư hầu đánh Đổng Trác, Mã Đằng cũng là một lộ quân tham gia trong danh sách hội thề, cùng 16 chư hầu khác. Trên thực tế Mã Đằng không đến hội quân với chư hầu dưới cờ Viên Thiệu.[17]

Năm 211, theo kế của Tuân Du, Tào Tháo lấy danh nghĩa thiên tử triệu Mã Đằng về triều phong làm Chinh Nam tướng quân để phối hợp cùng với quân Tào đánh Đông Ngô nhưng thực chất là để cô lập và ám hại Mã Đằng. Sau khi nhận được chiếu thư triệu ông về kinh thành, Mã Đằng bàn bạc với Mã Siêu và cháu là Mã Đại, sai Mã Siêu thống lĩnh quân Khương phòng thủ Tây Lương, đích thân dẫn năm nghìn quân Tây Lương, sai Mã Hưu, Mã Thiết làm tiên phong, Mã Đại dẫn một nghìn quân đi sau tiếp ứng, từ từ kéo sang Hứa Xương, đóng quân cách kinh đô hai mươi dặm. Tào Tháo sai quan Thị lang Hoàng Khuê làm Hành quân tham mưu để tiếp đãi và thương lượng với Mã Đằng.

Hoàng Khuê vốn bất mãn với Tào Tháo, lại biết được Mã Đằng từng tham gia vào vụ mưu sát Tào Tháo trước đó nên đã tiết lộ ý định của Tào Tháo cho Mã Đằng đồng thời bàn kế phối hợp mưu hại Tào Tháo. Vợ lẽ của Hoàng Khuê là Lý Xuân Hương dò biết được kế hoạch đã tiết lộ cho tình nhân của mình là Miêu Trạch (em vợ cả của Hoàng Khuê), Miêu Trạch lập tức mật báo cho Tào Tháo kế hoạch này, đổi lại xin Tào Tháo cho phép Miêu Trạch được cưới Xuân Hương. Tào Tháo biết được kế hoạch này lập tức bắt giam cả nhà Hoàng Khuê, ra lệnh cho Tào Hồng, Hứa Chử, Từ Hoảng, Hạ Hầu Uyên dàn quân phục kích Mã Đằng.

Mã Đằng trúng kế rơi vào trận phục kích, quân Tây Lương bị cung tên sát hại, Tào Hồng dẫn quân đánh chính diện, cánh trái có Hứa Chử, cánh phải là Hạ Hầu Uyên, mé sau là Từ Hoảng đuổi đến cắt đôi quân mã Tây Lương, vây chặt ba cha con Mã Đằng vào giữa. Mã Đằng liều chết chống cự nhưng nhanh chóng bị khống chế, Mã Thiết bị trúng tên chết, Mã Đằng và Mã Hưu cùng bị thương nặng, lại trúng tên nên ngã ngựa nên bị bắt. Tào Tháo giết hai cha con Mã Đằng cùng với Hoàng Khuê bêu đầu thị chúng, lại chém luôn Miêu Trạch, Lý Xuân Hương (với lý do "tiểu nhân, bất nghĩa") đồng thời chiêu an quân mã Tây Lương và phong tỏa các cửa ải bắt Mã Đại.[2]

Cái chết của Mã Đằng theo lời kể của La Quán Trung, là nguyên nhân khiến Mã Siêu khởi binh chống Tào Tháo để báo cừu thù. Theo đó, Khi Mã Siêu ở lại Tây Lương, đêm ngủ mơ thấy mình nằm trên vùng đất có tuyết, một đàn hổ đến ăn thịt, giật mình tỉnh dậy, trong bụng hồ nghi lắm, liền hợp cả tướng tá lại, nói rõ chuyện trong mộng và đó là bối cảnh khởi đầu của trận Đồng Quan trong lịch sử Trung Quốc.

Tuy vậy hư cấu này hoàn toàn trái ngược với chính sử khi Mã Siêu khởi binh chống lại triều đình thì Mã Đằng đang cư trú ở Nghiệp Thành và đang giữ chức Túc vệ trong triều đình.[18]

Xem thêm

Tham khảo

  • Tam Quốc chí, Trần Thọ, Bùi Tùng Chi ghi chú, các thiên:
    • Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện
    • Lưu Tư Mã Lương Trương Ôn Giả truyện
  • Tam Quốc diễn nghĩa, nguyên tác: La Quán Trung, người dịch: Phan Kế Bính
  • Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nhà xuất bản Lao động
  • Trần Văn Đức (2008), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nhà xuất bản Văn học
  • Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng

Chú thích

  1. ^ a b c d e Tam Quốc chí, Mã Siêu truyện, quyển 36
  2. ^ a b Tam Quốc diễn nghĩa, Hồi 57
  3. ^ Thiên là huyện Thiên Dương, ở tỉnh Thiểm Tây bây giờ; Lũng là núi Lũng, nằm giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc
  4. ^ Tức ba quận là Kinh Triệu (thủ phủ là Tràng An), quận Phù Phong phía bên phải Tràng An tức Hữu Phù Phong (thủ phủ là Hàm Dương) và quận Phùng Dực ở bên trái Tràng An tức Tả Phùng Dực (trung tâm là Đại Lệ)
  5. ^ Ý muốn nói đến nhà Hán
  6. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 37
  7. ^ Bảo Kê, thuộc Thiểm Tây
  8. ^ Tam Quốc chí, Thục thư quyển 8, Hứa Tĩnh truyện
  9. ^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 219
  10. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 623
  11. ^ Thục thư quyển 1, Lưu Nhị Mục truyện, Lưu Yên truyện
  12. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 624
  13. ^ Tam Quốc chí, Bàng Đức truyện, quyển 18
  14. ^ Lưu Tư Mã Lương Trương Ôn Giả truyện
  15. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 627
  16. ^ Đi tìm hậu duệ Ngụy, Thục, Ngô: Con cháu Quan Công, Mã Siêu
  17. ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 352
  18. ^ Tam Quốc chí, Mã Siêu truyện, Quyển 36
  • x
  • t
  • s
Nhân vật thời Hán mạtTam Quốc
Nhà
cai trị
Đông Hán
Tào Ngụy
Thục Hán
Đông Ngô
Tây Tấn
Khác
Đổng Trác • Công Tôn Toản • Lưu Biểu • Lưu Tông • Lưu Ngu • Lưu Yên • Lưu Chương • Lã Bố • Mã Đằng • Viên Thiệu • Viên Thuật • Trương Giác • Trương Lỗ • Công Tôn Độ • Công Tôn Khang • Công Tôn Cung • Công Tôn Uyên • Hàn Toại • Lưu Do • Lưu Đại • Lưu Sủng • Sĩ Nhiếp • Viên Đàm • Viên Hi • Viên Thượng
Hậu phi
phu nhân
Đông Hán
Đổng thái hậu • Hà thái hậu • Đổng quý nhân • Phục hoàng hậu • Tào hoàng hậu
Tào Ngụy
Đinh phu nhân • Biện phu nhân • Hoàn phu nhân • Chân hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Ngu phi • Mao hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Chân hoàng hậu • Trương hoàng hậu • Vương hoàng hậu • Biện hoàng hậu • Biện hoàng hậu
Thục Hán
Đông Ngô
Ngô phu nhân • Đại Kiều • Bộ phu nhân • Vương phu nhân • Vương phu nhân • Phan hoàng hậu • Toàn hoàng hậu • Hà thái hậu • Trương phu nhân • Chu hoàng hậu  • Đằng hoàng hậu
Khác
Triệu Nga • Thái Diễm • Hoàng Nguyệt Anh • Tiểu Kiều • Từ phu nhân • Tân Hiến Anh • Vương Dị • Tôn Lỗ Ban • Tôn Lỗ Dục • Lục Úc Sinh • Nguyễn phu nhân • Trương Xuân Hoa • Hạ Hầu Huy • Dương Huy Du • Vương Nguyên Cơ
Quan lại
Tào Ngụy
Ẩn Phồn • Bà Khâm • Bàng Dục • Bào Huân • Bỉnh Nguyên • Bùi Tiềm • Cao Đường Long • Cao Nhu • Chu Thước • Chung Do • Chung Dục • Diêm Ôn • Du Sở • Dương Bái • Dương Phụ • Dương Tu • Dương Tuấn • Đặng Dương • Đặng Hi • Đinh Dị • Đinh Mật • Đinh Nghi • Đinh Phỉ • Đô Thị Ngưu Lợi • Đỗ Kỳ • Đỗ Tập • Đỗ Thứ • Đổng Chiêu • Đổng Ngộ • Giả Hủ • Hạ Hầu Hòa • Hạ Hầu Huệ • Hạ Hầu Huyền • Hạ Hầu Uy • Hà Yến • Hàm Đan Thuần • Hàn Kỵ • Hàn Phạm • Hàn Tung • Hạo Chu • Hí Chí Tài • Hình Ngung • Hình Trinh • Hoa Hâm • Hòa Hiệp • Hoàn Điển • Hoàn Giai • Hoàn Phạm • Hoàn Uy • Hồ Chất • Hứa Chi • Hứa Doãn • Hứa Du • Kê Hỉ • Kê Khang • Khoái Việt • Lệnh Hồ Ngu • Lệnh Hồ Thiệu • Lộ Túy • Lư Dục • Lưu Dị • Lưu Diệp • Lưu Đào • Lưu Nghị • Lưu Phóng • Lưu Phức • Lưu Thiệu • Lưu Tiên • Lưu Tĩnh • Lưu Trinh • Lương Mậu • Lương Tập • Lý Nghĩa • Lý Phong • Lý Thắng • Mã Tuân • Mãn Vĩ • Mạnh Khang • Mạnh Kiến • Mao Giới • Mộc Tịnh • Ngu Tùng • Nguyễn Tịch • Nguyễn Vũ • Ngư Hoạn • Ôn Khôi • Phó Cán • Phó Hỗ • Phó Huyền • Phó Tốn • Quách Gia • Quốc Uyên • Sơn Đào • Tào Bưu • Tào Cứ • Tào Hùng • Tào Hi • Tào Lễ • Tào Vũ • Tảo Chi • Tân Tì • Tân Sưởng • Tất Kham • Thạch Thao • Thôi Diệm • Thôi Lâm • Thôi Tán • Thương Từ • Thường Lâm • Tiết Đễ • Tô Lâm • Tôn Tư • Tôn Ung • Trần Đăng • Trần Kiều • Trần Lâm • Trần Quần • Trình Dục • Trình Vũ • Trịnh Hồn • Trịnh Mậu • Trịnh Tiểu Đồng • Trịnh Xung • Trọng Trường Thống • Trương Cung • Trương Ký • Trương Phạm • Trương Tập • Trương Thừa • Tuân Du • Tuân Duyệt • Tuân Dực • Tuân Nghĩ • Tuân Úc • Tuân Vĩ • Tư Mã Chi • Tư Mã Lãng • Tư Mã Phu • Tư Mã Sư • Tư Mã Ý • Từ Cán • Từ Mạc • Từ Tuyên • Tưởng Ban • Tưởng Tế • Ứng Cừ • Ứng Sướng • Ứng Thiệu • Vệ Ký • Vệ Trăn • Vi Đản • Vi Khang • Viên Hoán • Viên Khản • Vũ Chu • Vương Hùng • Vương Lãng • Vương Nghiệp • Vương Quán • Vương Quảng • Vương Tất • Vương Tu • Vương Túc • Vương Tư • Vương Tượng • Vương Xán
Thục Hán
Ân Quán • Âm Hóa • Bàng Lâm • Bàng Thống • Bành Dạng • Bùi Tuấn • Diêu Trụ • Doãn Mặc • Dương Hồng • Dương Hí • Dương Nghi • Dương Ngung • Đặng Lương • Đỗ Quỳnh • Đỗ Vi • Đổng Doãn • Đổng Hòa • Đổng Khôi • Đổng Quyết • Gia Cát Kiều • Gia Cát Lượng • Gia Cát Quân • Giản Ung • Hà Chi • Hà Tông • Hoàng Hạo • Hồ Tiềm • Hứa Tĩnh • Hứa Từ • Hướng Lãng • Khước Chính • Lã Khải • Lã Nghệ • Lai Mẫn • Lại Cung • Liêu Lập • Lưu Ba • Lưu Cán • Lưu Diệm • Lưu Độ • Lý Mạc • Lý Mật • Lý Thiệu • Lý Triều • Lý Nghiêm • Lý Phong • Lý Phúc • Lý Soạn • Mã Lương • Mạnh Quang • My Trúc • Phàn Kiến • Pháp Chính • Phí Thi • Phí Y • Quách Du Chi • Tần Mật • Tập Trinh • Thường Úc • Tiều Chu • Tôn Càn • Tông Dự • Trần Chấn • Trần Chi • Trần Thọ • Trình Kỳ • Trương Biểu • Trương Duệ • Trương Thiệu • Trương Tồn • Từ Thứ • Tưởng Hiển • Tưởng Uyển • Xạ Kiên • Xạ Viên • Y Tịch • Vương Liên • Vương Mưu • Vương Phủ • Vương Sĩ
Đông Ngô
Ân Lễ  • Bộ Chất • Bộc Dương Hưng • Cố Đàm • Cố Đễ • Cố Thiệu • Cố Ung • Cố Vinh • Chu Trị • Chung Ly Mục • Diêu Tín • Dương Đạo • Dương Trúc • Đằng Dận • Đằng Mục • Đằng Tu • Đinh Mật • Đổng Triều • Gia Cát Cẩn • Gia Cát Khác • Hà Định • Hạ Thiệu • Hà Thực • Hác Phổ • Hoa Dung • Hoa Hạch • Hoàn Di • Hoằng Cầu • Hồ Tống • Hồ Xung • Hứa Cống • Khám Trạch • Kỵ Diễm • Kỷ Trắc • Lã Ý • Lạc Thống • Lâu Huyền • Lỗ Túc • Lục Cơ • Lục Hỉ • Lục Khải • Lục Mạo • Lục Tích • Lục Vân • Lục Y • Lưu Cơ • Lưu Đôn • Mạnh Nhân • Nghiêm Tuấn • Ngô Xán • Ngô Phạm • Ngu Phiên • Ngu Dĩ • Ngu Thụ • Phan Tuấn • Phạm Chẩn • Phạm Thận • Phùng Hi • Sầm Hôn • Tạ Cảnh • Tạ Thừa • Thạch Vĩ • Thái Sử Hưởng • Thẩm Hành • Thị Nghi • Tiết Doanh • Tiết Hủ • Tiết Tống • Toàn Ký • Toàn Thượng • Tôn Bá • Tôn Dực • Tôn Đăng • Tôn Hòa • Tôn Khuông • Tôn Kỳ • Tôn Lâm • Tôn Lự • Tôn Phấn • Tôn Thiệu • Tôn Tuấn • Tôn Tư • Tôn Ý • Trần Hóa • Triệu Đạt • Trình Bỉnh • Trương Chấn • Trương Chiêu • Trương Đễ • Trương Hoành • Trương Hưu • Trương Nghiễm • Trương Ôn • Trương Thừa • Từ Tường • Ung Khải • Vạn Úc • Vi Chiêu • Vương Phồn
Tây Tấn
Bùi Khải • Bùi Tú • Đỗ Chẩn • Đỗ Liệt • Giả Sung • Hà Phàn • Hà Tăng • Hà Trinh • Hầu Sử Quang • Hoàng Phủ Yến • Hồ Uy • Hướng Hùng • Lư Khâm • Lưu Nghị • Lưu Thực • Ngụy Thư • Phan An • Phùng Dư • Thọ Lương • Thoán Cốc • Thường Kỵ • Tô Du • Trương Hoa • Tuân Húc • Tư Mã Du • Ứng Trinh • Vệ Quán • Văn Lập • Vương Lãm • Vương Nghiệp • Vương Nhung • Vương Thẩm • Vương Tường
Khác
Lư Thực • Trương Nhượng • Triệu Trung • Tào Tung • Trương Ôn • Hàn Phức • Hoàng Uyển • Ngũ Quỳnh • Trần Cung • Thư Thụ • Điền Phong • Thẩm Phối • Bàng Kỷ • Quách Đồ • Tân Bình • Điền Trù • Đào Khiêm • Tuân Thầm • Trịnh Thái • Hà Ngung • Phó Tiếp • Cái Huân • Trần Kỷ • Trần Khuê • Trương Dương • Triệu Kỳ • Dương Bưu • Mã Mật Đê • Vương Doãn • Sĩ Tôn Thụy • Khổng Dung • Khổng Trụ • Tang Hồng • Ngụy Phúng • Lý Tiến • Lý Nho • Trương Mạc • Trương Siêu • Quản Ninh • Viên Di • Vương Liệt • Thái Ung • Gia Cát Huyền • Lưu Kỳ • Khoái Lương • Hàn Huyền • Đổng Phù • Triệu Vĩ • Vương Thương • Trương Tùng
Tướng
lĩnh
Tào Ngụy
Ân Thự • Bàng Đức • Bàng Hội • Cao Lãm • Châu Thái • Chu Cái • Chu Linh • Chung Hội • Diêm Hành • Diêm Nhu • Doãn Lễ • Doãn Phụng • Dương Hân • Dương Kỵ • Đặng Ngải • Đặng Trung • Điền Dự • Điền Tục • Điển Vi • Đới Lăng • Giả Quỳ • Giả Tín • Gia Cát Đản • Hạ Hầu Đôn • Hạ Hầu Hiến • Hạ Hầu Mậu • Hạ Hầu Nho • Hạ Hầu Thượng • Hạ Hầu Uyên • Hạ Hầu Vinh • Hác Chiêu • Hàn Hạo • Hàn Tống • Hầu Âm • Hầu Thành • Hoàng Hoa • Hồ Liệt • Hồ Phấn • Hồ Tuân • Hứa Chử • Hứa Nghi • Khiên Chiêu • Lã Khoáng • Lã Kiền • Lã Thường • Lã Tường • Lâu Khuê • Lộ Chiêu • Lỗ Chi • Lưu Đại • Lưu Huân • Lý Điển • Lý Phụ • Lý Thông • Mãn Sủng • Ngô Chất • Ngô Đôn • Ngưu Kim • Ngụy Bình • Ngụy Tục • Nhạc Lâm • Nhạc Tiến • Nhâm Tuấn • Phí Diệu • Quách Hoài • Quán Khâu Kiệm • Sư Toản • Sử Hoán • Tang Bá • Tào Chân • Tào Chương • Tào Hồng • Tào Hưu • Tào Nhân • Tào Sảng • Tào Thái • Tào Thuần • Tào Triệu • Tần Lãng • Tất Quỹ • Thái Dương • Thành Công Anh • Thân Nghi • Tiên Vu Phụ • Tiêu Xúc • Tô Tắc • Tôn Lễ • Tôn Quán • Tống Hiến • Trần Thái • Triệu Ngang • Triệu Nghiễm • Triệu Tiển • Trương Cáp • Trương Đặc • Trương Hổ • Trương Liêu • Trương Tú • Tư Mã Vọng • Từ Hoảng • Văn Hổ • Văn Khâm • Văn Sính • Văn Thục • Vu Cấm • Vương Bí • Vương Kinh • Vương Lăng • Vương Song • Vương Sưởng • Vương Trung • Xương Hi
Thục Hán
Bàng Hi • Cao Tường • Câu Phù • Diêm Vũ • Đặng Chi • Gia Cát Chiêm • Gia Cát Thượng • Hạ Hầu Bá • Hạ Hầu Lan • Hoàng Trung • Hoàng Quyền • Hoắc Dặc • Hoắc Tuấn • Hồ Tế • Hướng Sủng • Khương Duy • La Hiến • Liêu Hóa • Liễu Ẩn • Lôi Đồng • Lôi Tự • Lưu Bàn • Lưu Mẫn • Lưu Phong • Lưu Tuần • Lưu Ung • Lý Khôi • Mã Đại • Mã Siêu • Mã Tắc • Mã Trung • Mạnh Đạt • Mạnh Hoạch • Nghiêm Nhan • Ngô Ban • Ngô Lan • Ngô Ý • Ngụy Diên • Phí Quán • Phó Dung • Phó Thiêm • Phụ Khuông • Phùng Tập • Quan Bình • Quan Hưng • Quan Vũ • Sa Ma Kha • Tập Trân • Thân Đam • Trác Ưng • Trần Đáo • Trần Thức • Triệu Lũy • Triệu Vân • Trương Dực • Trương Nam • Trương Ngực • Trương Phi • Tưởng Bân • Tưởng Thư • Viên Lâm • Vương Bình • Vương Hàm • Vương Tự
Đông Ngô
Bộ Cơ • Bộ Hiệp • Bộ Xiển • Cam Ninh • Chu Cứ • Chu Dận • Chu Du • Chu Dị • Chu Hoàn • Chu Nhiên • Chu Phường • Chu Tài • Chu Thái • Chu Thiệu • Chu Xử • Chung Ly Tuân • Cố Dung • Cố Thừa • Cốc Lợi • Đào Hoàng • Đào Tuấn • Đinh Phong • Đinh Phụng • Đổng Tập • Đường Tư • Gia Cát Dung • Gia Cát Tịnh • Hạ Đạt • Hạ Tề • Hàn Đương • Hoàng Cái • Kỷ Chiêm • Lã Cứ • Lã Đại • Lã Khải • Lã Mông • Lã Phạm • Lăng Tháo • Lăng Thống • Lỗ Thục • Lục Cảnh • Lục Dận • Lục Kháng • Lục Tốn • Lục Yến • Lưu A • Lưu Bình • Lưu Lược • Lưu Tán • Lưu Toản • Lý Dị • Lý Úc • Mã Mậu • Mã Trung • My Phương • Ngô Cảnh • Ngô Ngạn • Ngu Tiện • Ngu Trung • Nhuế Huyền • Phan Chương • Phan Lâm • Phạm Cương • Quách Mã • Sĩ Nhân • Tạ Tinh • Thái Sử Từ • Thẩm Oánh • Thi Tích • Tiên Vu Đan • Toàn Dịch • Toàn Đoan • Toàn Tông • Toàn Tự • Tô Phi • Tổ Lang • Tổ Mậu • Tôn Ân • Tôn Bí • Tôn Cảo • Tôn Chấn • Tôn Di • Tôn Dị • Tôn Du • Tôn Hâm • Tôn Khải • Tôn Lãng • Tôn Lân • Tôn Hà • Tôn Hiệu • Tôn Hoàn • Tôn Hoán • Tôn Phụ • Tôn Thiều • Tôn Tịnh • Tôn Tuấn • Tôn Tùng • Tống Khiêm • Trần Biểu • Trần Tu • Trần Vũ • Trình Phổ • Trịnh Trụ • Trương Bố • Trương Đạt • Tu Doãn • Tu Tắc • Từ Côn • Từ Thịnh • Tưởng Khâm • Vu Thuyên • Vương Đôn
Tây Tấn
Chu Tuấn • Dương Hỗ • Dương Tắc • Dương Tông • Dương Triệu • Đỗ Dự • Đổng Nguyên • Đường Bân • Gia Cát Tự • Hồ Uyên • Khiên Hoằng • Lý Tùng • Mã Long • Mao Cảnh • Mạnh Cán • Thạch Bao • Thoán Năng • Trần Khiên • Tôn Tú • Tuân Khải • Tư Mã Dung • Tư Mã Lượng • Tư Mã Phụ • Tư Mã Trụ • Tư Mã Tuấn • Vương Hồn • Vương Tố • Vương Tuấn
Khác
Trương Bảo • Trương Lương • Trương Yên • Mã Nguyên Nghĩa • Hoàng Phủ Tung • Chu Tuấn • Hà Tiến • Đinh Nguyên • Từ Cầu • Hoa Hùng • Chủng Tập • Chủng Thiệu • Bào Tín • Kỷ Linh • Kiều Nhuy • Lôi Bạc • Trần Lan • Văn Xú • Nhan Lương • Khúc Nghĩa • Lý Thôi • Quách Dĩ • Trương Tế • Phàn Trù • Đoàn Ổi • Từ Vinh • Hồ Chẩn • Dương Định • Tào Báo • Lưu Tích • Giả Long • Trương Nhiệm • Lưu Khôi • Dương Ngang • Dương Nhiệm • Biên Chương • Bắc Cung Ngọc • Lý Văn Hầu • Thuần Vu Quỳnh • Viên Hi • Cao Cán • Cao Thuận • Thành Liêm • Tào Tính • Hác Manh • Trương Tiện • Liễu Nghị • Trách Dung • Hầu Tuyển • Trình Ngân • Trương Hoành • Thành Nghi • Lý Kham • Mã Ngoạn • Dương Thu • Lương Hưng • Lý Mông • Vương Phương • Đổng Thừa • Dương Phụng • Hàn Tiêm • Lã Giới • Vương Uy • Hoàng Tổ
Khác
Bàng Đức Công • Chu Bất Nghi • Chu Kiến Bình • Chu Quần • Chu Tuyên • Đỗ Quỳ • Đổng Phụng • Điêu Thuyền • Hạ Hầu Xứng • Hoa Đà • Hoàng Phủ Mật • Hoàng Thừa Ngạn • Hồ Chiêu • Mã Hưu • Mã Thiết • Lã Hưng • Lưu Huy • Mã Quân • Nễ Hành • Quản Lộ • Tả Từ • Tào Bất Hưng • Tào Thực • Tào Xung • Thành Tế • Tuân Sảng • Tuân Xán • Tống Trọng Tử • Tôn Thiệu • Triệu Nguyệt • Trịnh Huyền • Nhâm An • Trương Bao • Trương Tiến • Trương Trọng Cảnh • Tư Mã Huy • Vương Bật
Liên quan