Điền Trù

Điền Trù
Tên chữTử Thái
Thông tin cá nhân
Sinh169
Mất214
Giới tínhnam
Nghề nghiệpchính khách
[sửa trên Wikidata]x • t • s

Điền Trù (chữ Hán: 田畴, 169 – 214), tên tự là Tử Thái, người huyện Vô Chung, quận Hữu Bắc Bình[1], là ẩn sĩ cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thụ mệnh đi sứ, viếng mộ Lưu Ngu

Trù thích đọc sách, giỏi đánh kiếm. Năm Sơ Bình đầu tiên (190), Đổng Trác dời Hán Hiến đế sang Trường An, U Châu mục Lưu Ngu tìm người làm sứ giả đến triều đình, mọi người đề cử Điền Trù – khi ấy mới 22 tuổi – nên ông được Ngu cho thự chức Tòng sự. Lưu Ngu sắp đặt ngựa xe, Trù từ chối, tự tổ chức kỵ đội, ra khỏi biên tái, nhằm thẳng Sóc Phương, rồi đi tắt đến Trường An. Tại kinh thành, Trù được khen ngợi rất nhiều, nhưng ông từ chối nhận phong thưởng cũng như các lời mời làm quan. [1]

Trước khi lên đường, Trù đã cảnh báo Lưu Ngu về Công Tôn Toản, nhưng Ngu không nghe. Nhận được chương báo (thư trả lời), Trù vội quay về, nhưng chưa kịp thì Ngu đã bị Toản sát hại (193). Trù bái yết mộ của Ngu, đọc chương báo, than khóc rồi đi. Toản cả giận, bắt giữ Trù, nhưng không giết mà câu thúc ông trong quân. Vì danh vọng của Trù quá lớn, Toản đành thả ông đi. [2]

Ẩn cư trong núi, giúp chinh Ô Hoàn

Trù đưa tông tộc và tùy tùng vài trăm người vào núi Từ Vô, tự cày cấy phụng dưỡng cha mẹ. Sau vài năm, trăm họ theo về, lên đến hơn 5000 gia đình. Trù được mọi người cử làm thủ lĩnh, định lập pháp luật, chế ra lễ nghi, tổ chức giáo dục, được người ở bắc biên tin phục; Ô Hoàn, Tiên Ti sai sứ giả giao thiệp, cha con Viên Thiệu, Viên Thượng nhiều lần vời gọi, Trù đều cự tuyệt. [3]

Năm Kiến An thứ 12 (207), Tào Tháo chinh phạt Ô Hoàn, sai Điền Dự làm sứ giả đi gọi Trù, ông lập tức đến gặp. Trù được thự chức Tư không hộ tào duyện, rồi nhận chức Thiều (huyện) lệnh, nhưng không đến nhiệm sở, mà theo quân đi Vô Chung. Gặp lúc lụt lội, đường sá không thông, Trù hiến kế giả cách lui quân, bỏ đường lớn theo đường nhỏ, nhằm đến Liễu Thành, tập kích Đạp Đốn thiền vu, Tháo khen hay. Quân Tào đánh bại Ô Hoàn, Tháo phong Trù làm Đình hầu. Trù tự thẹn vì trốn tránh núi sâu, không báo được thù giết chủ, nên từ chối, Tháo không ép. [4]

Kiên trì giữ tiết, từ nhượng chức – tước

Công Tôn KhangLiêu Đông giết Viên Thượng, Trù điếu tế ông ta. Việc này bị Bùi Tùng Chi chỉ trích. [5]

Trù đem gia thuộc và họ hàng định cư ở huyện Nghiệp. Tào Tháo nhiều lần cưỡng ép Trù nhận chức – tước, ông rốt cục vẫn từ chối. Triều thần hạch tội Trù cố chấp trái lẽ, đòi trị tội. Tào Tháo không nỡ, mãi về sau mới giao cho Tào Phi cùng các đại thần nghị luận. Tào Phi đề nghị bỏ qua để thành toàn chí tiết cho Trù, được Tuân Úc, Chung Do tán đồng. Tháo vẫn muốn phong hầu cho Trù, sai Hạ Hầu Đôn thuyết phục ông, rốt cục vẫn không được. Tào Tháo đành thôi, phong ông làm Nghị lang.[6]

Năm 214, Điền Trù mất, hưởng thọ 46 tuổi. Vì con ông cũng mất sớm, Tào Ngụy Văn đế đề cao đức nghĩa của ông, phong cháu gọi Trù bằng ông chú/ bác (tòng tôn) là Tục làm Quan nội hầu, để phụng tự ông. [7]

Xem thêm

Tham khảo

Khảo chứng

  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Sơ Bình nguyên niên, nghĩa binh khởi, Đổng Trác dời đế đi Trường An. U Châu mục Lưu Ngu than rằng: "Tặc thần làm loạn, triều đình lưu vong, bốn bể ly loạn, chẳng ai còn bền chí được nữa. Thân là tông thất di lão, không thể giống như mọi người. Nay muốn sai sứ cho trọn lễ tiết của bề tôi, làm sao tìm được kẻ sĩ không nhục mệnh đây?" Mọi người bàn rằng: "Điền Trù tuy trẻ tuổi, nhưng được nhiều người khen là kỳ nhân." Trù khi ấy mới 22 tuổi. Ngu bèn soạn lễ vật mời gặp mặt, rất hài lòng về ông, nên thự làm tòng sự, sắp đặt ngựa xe cho ông. Sắp lên đường, Trù nói: "Nay đường sá trở ngại, giặc cướp tung hoành, xưng là quan phụng sứ, sẽ bị bọn chúng chú ý. Tôi cho rằng nên đi với tư cách cá nhân, mong sao đến nơi mới thôi." Ngu nghe theo. Trù quay về, tự tuyển gia khách cùng những kẻ dũng tráng trẻ tuổi được 20 kỵ sĩ cùng đi. Ngu đích thân làm lễ cúng tế lộ thần để đưa tiễn bọn họ. Thay vì chọn đường lớn, Trù bèn đổi hướng đi lên Tây Quan [2], xuất tái, men theo phương bắc, rảo thẳng Sóc Phương, trong một tuần đi tắt khỏi đấy, rồi đến Trường An trao thư. Có chiếu bái làm Kỵ đô úy. Trù cho rằng thiên tử đang mờ mịt chưa yên, không thể nhận vinh sủng như vậy. Triều đình nêu cao tiết nghĩa của ông. Tam phủ [3] cũng vời, đều không theo.
  1. ^ Bùi Tùng Chi chú giải Trần Thọ, tlđd: Tiên hiền hành trạng chép: Trù sắp đi, dắt Ngu ra bí mật cùng bàn bạc. Trù nhân đó nói với Ngu rằng: "Nay đế chủ ấu nhược, gian thần thiện mệnh, biểu dâng lên đợi trả lời, sợ sẽ lỡ việc. Vả lại Công Tôn Toản cậy có quân đội mà ra tay tàn nhẫn, không sớm tính đến hắn, ắt phải hối hận về sau." Ngu không nghe. Trần Thọ, tlđd: Nhận được trả lời, vội quay về, chưa đến nơi, Ngu đã bị Công Tôn toản sát hại. Trù về đến, yết tế mộ của Ngu, bày mở chương biểu, khóc lóc rồi đi. Toản nghe được thì cả giận, treo thưởng bắt được Trù, nói rằng: "Mày sao tự ý đến khóc mộ Lưu Ngu, mà không đưa chương báo cho ta?" Trù đáp rằng: "Hán thất suy đồi, lòng người thay đổi, chỉ có Lưu công không mất trung tiết. Lời trong chương báo, đối với tướng quân chẳng có gì hay, e rằng không vui vẻ gì để đọc, nên không dâng lên. Huống hồ tướng quân sắp cử đại sự mà lại theo đuổi dục vọng cá nhân, đã giết đi bậc quân chủ vô tội, còn thù hằn bề tôi giữ nghĩa, tin rằng những việc này sẽ khiến sĩ phu Yên, Triệu thà đâm đầu xuống Đông Hải tìm chết, há chịu nhẫn nhịn đi theo tướng quân ư!" Toản khâm phục lời đáp ấy, tha không giết nữa. (Toản) câu thúc trong quân, ngăn cấm cố nhân của ông không được liên hệ. Có người thuyết phục Toản: "Điền Trù là nghĩa sĩ, ngài chẳng giữ lễ, còn cầm tù ông ta, e gây mất lòng người." Toản bèn thả Trù đi.
  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Trù được trở về phương bắc, soái cử tông tộc và những kẻ phụ tòng ông được mấy trăm người, vạch đất mà thề rằng: "Thù chủ không báo, ta không thể đứng trên đời." Rồi nhân đó vào núi Từ Vô, tìm chỗ đất bằng phẳng nơi sâu hiểm mà định cư, đích thân cày cấy để nuôi cha mẹ. Trăm họ theo về, mấy năm sau lên đến hơn 5000 gia đình. Trù nói với phụ lão của họ rằng: "Các anh không cho rằng Trù không ra gì, từ xa đến nương náu. Nhiều người sẽ làm nên chốn đô ấp, mà không được lãnh đạo thống nhất, sợ rằng không phải phép yên ổn lâu dài, xin hãy chọn ra một bậc trưởng giả hiền năng làm chủ." Đều đáp: "Đúng." Cùng nhau đề cử Trù. Trù nói: "Đã đến nước này, không thể cầu an là đủ, mà phải mưu tính việc lớn, phục thù rửa nhục. Thiết nghĩ e rằng chúng ta chưa đắc chí, thì những kẻ khinh bạc đã quấy rối hà hiếp lẫn nhau, trộm lấy niềm vui nhất thời, không có thâm mưu viễn lự. Trù có ngu kế, xin cùng các anh thi hành, được không?" Đều đáp: "Được." Trù bèn làm ra ước thúc cùng pháp luật về sát thương, trộm cắp, tranh tụng; tội nặng đến chết, nhẹ hơn chịu phạt, có hơn 20 điều. Lại chế định lễ nghi hôn nhân cưới gả, hưng cử công việc giáo dục giảng dạy, ban hành cho mọi người, ai cũng làm theo, đến mức trên đường không nhặt của rơi. Bắc biên hợp nhau phục tùng uy tín của ông, Ô Hoàn, Tiên Ti sai dịch sứ gởi cống vật, Trù đều từ chối, lệnh không được cướp bóc. Viên Thiệu mấy lần sai sứ chiêu mệnh, còn trao ấn tướng quân, Trù cũng cự tuyệt. Thiệu chết, con ông ta là Thượng lại vời, Trù rốt cục không đi.
  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Trù thường căm phẫn Ô Hoàn khi xưa nhiều lần giết hại quan viên quận mình, có ý muốn đánh dẹp nhưng không làm nổi. Năm Kiến An thứ 12, Thái Tổ bắc chinh Ô Hoàn, chưa đến, trước tiên sai sứ vời Trù, vừa mệnh Điền Dự truyền dụ chỉ. Trù dặn môn hạ mau chuẩn bị hành trang. Môn nhân nói rằng: "Xưa Viên công mộ ngài, lễ (vật) - mệnh (lệnh) năm lần đến, ngài đều bất khuất; nay sứ giả của Tào công một lần đi lại mà ngài đã sợ không kịp, sao vậy?" Trù cười mà đáp rằng: "Điều này không thể giải thích cho anh hiểu được!" Rồi theo sứ giả đến quân, thự chức Tư không hộ tào duyện, dẫn kiến Tư nghị. Hôm sau xuất lệnh rằng: "Điền Tử Thái không phải là (quan) lại do ta bổ nhiệm." Lập tức cử Mậu tài, bái làm Thiều lệnh, không đến nhiệm sở, theo quân đi Vô Chung. Khi ấy đang có mưa mùa hè, mà Tân Hải (đạo) trũng thấp, lầy lội không thông, giặc cũng chặn giữ nơi hiểm yếu, quân không tiến được. Thái Tổ lo lắng, đem hỏi Trù. Trù nói: "Đạo này, thu hạ thường có nước, nông thì không thông ngựa xe, sâu thì không nâng thuyền bè, khó đi lâu rồi. Xưa quận trị Bắc Bình tại Bình Cương, đi ra Lô Long, đến được Liễu Thành; từ niên hiệu Kiến Vũ đến nay, vùi lấp chẹn đứt, đã 200 năm, xem chừng có một con đường tắt đi được. Nay tướng giặc cho rằng đại quân đang ở Vô Chung, không tiến được thì lui, buông lỏng phòng bị. Nếu như lùi quân, từ Lô Long khẩu vượt chỗ hiểm yếu của Bạch Đàn, ra khu vực không có người, đường đi gần đó nên tiện lợi, nhằm lúc đối phương không phòng bị, đầu của Đạp Đốn có thể không đánh mà lấy được." Thái Tổ nói: "hay." Bèn đưa quân về, còn dựng những cây gỗ lớn ở bên đường cạnh mép nước, đề rằng: "Bây giờ đang hè, đường sá không thông, đợi đến thu đông, sẽ lại tiến quân." Kỵ binh do thám của giặc trông thấy, thực cho rằng đại quân đã đi rồi. Thái Tổ lệnh Trù đem người của ông làm hướng đạo, lên núi Từ Vô, ra Lô Long, qua Bình Cương, trèo Bạch Lang đôi, cách Liễu Thành 200 dặm, giặc mới nhận ra. Thiền vu đích thân lâm trận, Thái Tô cùng giao chiến, rồi chém được rất nhiều, đuổi theo lên phía bắc, đến Liễu Thành. Quân quay lại nhập tái, luận công hành phong, phong Trù làm Đình hầu, thực ấp 500 hộ... Trù tự cho rằng ban đầu vì tránh nạn, đưa người bỏ trốn, chí nghĩa không lập, ngược lại còn được lợi, không phải là bản ý, nên từ chối. Thái Tổ biết chí tâm của ông, đồng ý không ép.
  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Liêu Đông chém rồi gởi đầu của Viên Thượng, có lệnh ba quân ai dám khóc thì chém, Trù cho rằng đã từng được Thượng vời, bèn đi điếu tế. Thái Tổ cũng không hỏi. Thần Tùng Chi cho rằng vì Điền Trù không nhận mệnh của cha con Viên Thiệu, cho rằng bọn họ phi chánh vậy. Nên hết lòng về với Thái Tố, bày kế sách Lô Long. Suy ra việc Viên Thượng bôn ba, mất đầu ở Liêu Đông, đều là do Trù vậy. Đã tỏ rõ ông ta là giặc, sao lại điếu tế đầu của ông ta chứ? Bằng như cho rằng từng được vời gọi, theo nghĩa phải trung thành với ông ta, ắt không nhận lời bày mưu cho kẻ khác, khiến ông ta đến nông nỗi này. Việc làm này của Trù, thật là không hợp tình lý, so với Vương Tu khóc Viên Đàm, ngoài mặt thì giống mà trong lòng thì khác vậy.
  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Trù đem hết gia thuộc cùng tông nhân hơn 300 gia đình định cư ở Nghiệp. Thái Tổ tứ Trù xe, ngựa, lúa, lụa, đều chia cho tông tộc cùng hưởng. Tòng chinh Kinh Châu trở về, Thái Tổ truy niệm công lao của Trù rất lớn, hận khi trước đồng ý cho Trù từ nhượng, nói: "Ấy là hoàn thành chí hướng của một người, mà gây hại cho vương pháp đại chế vậy." Vì thế bèn đem tước khi trước phong cho Trù... Trù dâng sớ trần tình, lấy cái chết để thề. Thái Tổ không nghe, muốn dẫn bái ông, đến lần thứ tư, cuối cùng không thụ. Hữu tư hặc Trù hẹp hòi trái đạo, cầu lập tiểu tiết, nên miễn quan gia hình. Thái tổ trọng việc làm của ông, trì hoãn một thời gian dài. Bèn giao xuống cho thế tử cùng đại thần bác nghị; thế tử cho rằng Trù giống Tử Văn từ lộc, Thân Tư trốn thưởng, nên đừng ép để khen ngợi tiết tháo của ông. Thượng thư lệnh Tuân Úc, Tư lệ hiệu úy Chung Do cũng cho rằng có thể theo... Thái Tổ vẫn muốn phong hầu cho ông. Trù vốn cùng Hạ Hầu Đôn thân thiện, Thái Tổ nói với Đôn rằng: "Hãy đi lấy tình mà bảo ông ta, cứ xem là lời của anh, đừng nói là ý của tôi." Đôn ghé nhà Trù nghỉ qua đêm, làm theo lời dạy của Thái Tổ. Trù đoán biết ý định của ông ta, không nhắc lại lời nào. Đôn sắp đi, vỗ vai Trù nói: "Anh Điền, ý chúa ân cần, hãy đừng cố chấp nữa!" Trù đáp rằng: "Sao lại nói quá như vậy! Trù là người phụ nghĩa trốn tránh, nhờ ơn được sống, là may mắn lắm rồi. Há dám bán Lô Long chi tái [4] để đổi lấy thưởng lộc ư? Đem của công cho riêng Trù, Trù một mình không thẹn với lòng ru? Tướng quân vốn biết Trù, mà còn như thế này, bằng như bất đắc dĩ, xin tự vẫn để giữ như trước." Nói chưa dứt, nước mắt chảy quanh. Đôn trình bày lại với Thái Tổ. Thái Tổ bùi ngùi biết không thể khuất, bèn bái làm Nghị lang.
  1. ^ Trần Thọ, tlđd: Được 46 tuổi thì mất. Con lại mất sớm. Văn đế tiễn tộ, đề cao đức nghĩa của Trù, tứ tòng tôn của Trù là Tục tước Quan nội hầu, để phụng tự ông.

Chú thích

  1. ^ Nay là Ngọc Điền, Hà Bắc
  2. ^ Tức Cư Dung quan, nay thuộc huyện Xương Bình, Bắc Kinh
  3. ^ Tức tam công
  4. ^ Nay là Hỷ Phong khẩu ở giao giới 2 huyện Thiên Tây, Khoan Thành thuộc Hà Bắc
  • x
  • t
  • s
Nhân vật thời Hán mạtTam Quốc
Nhà
cai trị
Đông Hán
Tào Ngụy
Thục Hán
Đông Ngô
Tây Tấn
Khác
Hậu phi
phu nhân
Đông Hán
Đổng thái hậu • Hà thái hậu • Đổng quý nhân • Phục hoàng hậu • Tào hoàng hậu
Tào Ngụy
Đinh phu nhân • Biện phu nhân • Hoàn phu nhân • Chân hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Ngu phi • Mao hoàng hậu • Quách hoàng hậu • Chân hoàng hậu • Trương hoàng hậu • Vương hoàng hậu • Biện hoàng hậu • Biện hoàng hậu
Thục Hán
Đông Ngô
Ngô phu nhân • Đại Kiều • Bộ phu nhân • Vương phu nhân • Vương phu nhân • Phan hoàng hậu • Toàn hoàng hậu • Hà thái hậu • Trương phu nhân • Chu hoàng hậu  • Đằng hoàng hậu
Khác
Triệu Nga • Thái Diễm • Hoàng Nguyệt Anh • Tiểu Kiều • Từ phu nhân • Tân Hiến Anh • Vương Dị • Tôn Lỗ Ban • Tôn Lỗ Dục • Lục Úc Sinh • Nguyễn phu nhân • Trương Xuân Hoa • Hạ Hầu Huy • Dương Huy Du • Vương Nguyên Cơ
Quan lại
Tào Ngụy
Ẩn Phồn • Bà Khâm • Bàng Dục • Bào Huân • Bỉnh Nguyên • Bùi Tiềm • Cao Đường Long • Cao Nhu • Chu Thước • Chung Do • Chung Dục • Diêm Ôn • Du Sở • Dương Bái • Dương Phụ • Dương Tu • Dương Tuấn • Đặng Dương • Đặng Hi • Đinh Dị • Đinh Mật • Đinh Nghi • Đinh Phỉ • Đô Thị Ngưu Lợi • Đỗ Kỳ • Đỗ Tập • Đỗ Thứ • Đổng Chiêu • Đổng Ngộ • Giả Hủ • Hạ Hầu Hòa • Hạ Hầu Huệ • Hạ Hầu Huyền • Hạ Hầu Uy • Hà Yến • Hàm Đan Thuần • Hàn Kỵ • Hàn Phạm • Hàn Tung • Hạo Chu • Hí Chí Tài • Hình Ngung • Hình Trinh • Hoa Hâm • Hòa Hiệp • Hoàn Điển • Hoàn Giai • Hoàn Phạm • Hoàn Uy • Hồ Chất • Hứa Chi • Hứa Doãn • Hứa Du • Kê Hỉ • Kê Khang • Khoái Việt • Lệnh Hồ Ngu • Lệnh Hồ Thiệu • Lộ Túy • Lư Dục • Lưu Dị • Lưu Diệp • Lưu Đào • Lưu Nghị • Lưu Phóng • Lưu Phức • Lưu Thiệu • Lưu Tiên • Lưu Tĩnh • Lưu Trinh • Lương Mậu • Lương Tập • Lý Nghĩa • Lý Phong • Lý Thắng • Mã Tuân • Mãn Vĩ • Mạnh Khang • Mạnh Kiến • Mao Giới • Mộc Tịnh • Ngu Tùng • Nguyễn Tịch • Nguyễn Vũ • Ngư Hoạn • Ôn Khôi • Phó Cán • Phó Hỗ • Phó Huyền • Phó Tốn • Quách Gia • Quốc Uyên • Sơn Đào • Tào Bưu • Tào Cứ • Tào Hùng • Tào Hi • Tào Lễ • Tào Vũ • Tảo Chi • Tân Tì • Tân Sưởng • Tất Kham • Thạch Thao • Thôi Diệm • Thôi Lâm • Thôi Tán • Thương Từ • Thường Lâm • Tiết Đễ • Tô Lâm • Tôn Tư • Tôn Ung • Trần Đăng • Trần Kiều • Trần Lâm • Trần Quần • Trình Dục • Trình Vũ • Trịnh Hồn • Trịnh Mậu • Trịnh Tiểu Đồng • Trịnh Xung • Trọng Trường Thống • Trương Cung • Trương Ký • Trương Phạm • Trương Tập • Trương Thừa • Tuân Du • Tuân Duyệt • Tuân Dực • Tuân Nghĩ • Tuân Úc • Tuân Vĩ • Tư Mã Chi • Tư Mã Lãng • Tư Mã Phu • Tư Mã Sư • Tư Mã Ý • Từ Cán • Từ Mạc • Từ Tuyên • Tưởng Ban • Tưởng Tế • Ứng Cừ • Ứng Sướng • Ứng Thiệu • Vệ Ký • Vệ Trăn • Vi Đản • Vi Khang • Viên Hoán • Viên Khản • Vũ Chu • Vương Hùng • Vương Lãng • Vương Nghiệp • Vương Quán • Vương Quảng • Vương Tất • Vương Tu • Vương Túc • Vương Tư • Vương Tượng • Vương Xán
Thục Hán
Ân Quán • Âm Hóa • Bàng Lâm • Bàng Thống • Bành Dạng • Bùi Tuấn • Diêu Trụ • Doãn Mặc • Dương Hồng • Dương Hí • Dương Nghi • Dương Ngung • Đặng Lương • Đỗ Quỳnh • Đỗ Vi • Đổng Doãn • Đổng Hòa • Đổng Khôi • Đổng Quyết • Gia Cát Kiều • Gia Cát Lượng • Gia Cát Quân • Giản Ung • Hà Chi • Hà Tông • Hoàng Hạo • Hồ Tiềm • Hứa Tĩnh • Hứa Từ • Hướng Lãng • Khước Chính • Lã Khải • Lã Nghệ • Lai Mẫn • Lại Cung • Liêu Lập • Lưu Ba • Lưu Cán • Lưu Diệm • Lưu Độ • Lý Mạc • Lý Mật • Lý Thiệu • Lý Triều • Lý Nghiêm • Lý Phong • Lý Phúc • Lý Soạn • Mã Lương • Mạnh Quang • My Trúc • Phàn Kiến • Pháp Chính • Phí Thi • Phí Y • Quách Du Chi • Tần Mật • Tập Trinh • Thường Úc • Tiều Chu • Tôn Càn • Tông Dự • Trần Chấn • Trần Chi • Trần Thọ • Trình Kỳ • Trương Biểu • Trương Duệ • Trương Thiệu • Trương Tồn • Từ Thứ • Tưởng Hiển • Tưởng Uyển • Xạ Kiên • Xạ Viên • Y Tịch • Vương Liên • Vương Mưu • Vương Phủ • Vương Sĩ
Đông Ngô
Ân Lễ  • Bộ Chất • Bộc Dương Hưng • Cố Đàm • Cố Đễ • Cố Thiệu • Cố Ung • Cố Vinh • Chu Trị • Chung Ly Mục • Diêu Tín • Dương Đạo • Dương Trúc • Đằng Dận • Đằng Mục • Đằng Tu • Đinh Mật • Đổng Triều • Gia Cát Cẩn • Gia Cát Khác • Hà Định • Hạ Thiệu • Hà Thực • Hác Phổ • Hoa Dung • Hoa Hạch • Hoàn Di • Hoằng Cầu • Hồ Tống • Hồ Xung • Hứa Cống • Khám Trạch • Kỵ Diễm • Kỷ Trắc • Lã Ý • Lạc Thống • Lâu Huyền • Lỗ Túc • Lục Cơ • Lục Hỉ • Lục Khải • Lục Mạo • Lục Tích • Lục Vân • Lục Y • Lưu Cơ • Lưu Đôn • Mạnh Nhân • Nghiêm Tuấn • Ngô Xán • Ngô Phạm • Ngu Phiên • Ngu Dĩ • Ngu Thụ • Phan Tuấn • Phạm Chẩn • Phạm Thận • Phùng Hi • Sầm Hôn • Tạ Cảnh • Tạ Thừa • Thạch Vĩ • Thái Sử Hưởng • Thẩm Hành • Thị Nghi • Tiết Doanh • Tiết Hủ • Tiết Tống • Toàn Ký • Toàn Thượng • Tôn Bá • Tôn Dực • Tôn Đăng • Tôn Hòa • Tôn Khuông • Tôn Kỳ • Tôn Lâm • Tôn Lự • Tôn Phấn • Tôn Thiệu • Tôn Tuấn • Tôn Tư • Tôn Ý • Trần Hóa • Triệu Đạt • Trình Bỉnh • Trương Chấn • Trương Chiêu • Trương Đễ • Trương Hoành • Trương Hưu • Trương Nghiễm • Trương Ôn • Trương Thừa • Từ Tường • Ung Khải • Vạn Úc • Vi Chiêu • Vương Phồn
Tây Tấn
Bùi Khải • Bùi Tú • Đỗ Chẩn • Đỗ Liệt • Giả Sung • Hà Phàn • Hà Tăng • Hà Trinh • Hầu Sử Quang • Hoàng Phủ Yến • Hồ Uy • Hướng Hùng • Lư Khâm • Lưu Nghị • Lưu Thực • Ngụy Thư • Phan An • Phùng Dư • Thọ Lương • Thoán Cốc • Thường Kỵ • Tô Du • Trương Hoa • Tuân Húc • Tư Mã Du • Ứng Trinh • Vệ Quán • Văn Lập • Vương Lãm • Vương Nghiệp • Vương Nhung • Vương Thẩm • Vương Tường
Khác
Lư Thực • Trương Nhượng • Triệu Trung • Tào Tung • Trương Ôn • Hàn Phức • Hoàng Uyển • Ngũ Quỳnh • Trần Cung • Thư Thụ • Điền Phong • Thẩm Phối • Bàng Kỷ • Quách Đồ • Tân Bình • Điền Trù • Đào Khiêm • Tuân Thầm • Trịnh Thái • Hà Ngung • Phó Tiếp • Cái Huân • Trần Kỷ • Trần Khuê • Trương Dương • Triệu Kỳ • Dương Bưu • Mã Mật Đê • Vương Doãn • Sĩ Tôn Thụy • Khổng Dung • Khổng Trụ • Tang Hồng • Ngụy Phúng • Lý Tiến • Lý Nho • Trương Mạc • Trương Siêu • Quản Ninh • Viên Di • Vương Liệt • Thái Ung • Gia Cát Huyền • Lưu Kỳ • Khoái Lương • Hàn Huyền • Đổng Phù • Triệu Vĩ • Vương Thương • Trương Tùng
Tướng
lĩnh
Tào Ngụy
Ân Thự • Bàng Đức • Bàng Hội • Cao Lãm • Châu Thái • Chu Cái • Chu Linh • Chung Hội • Diêm Hành • Diêm Nhu • Doãn Lễ • Doãn Phụng • Dương Hân • Dương Kỵ • Đặng Ngải • Đặng Trung • Điền Dự • Điền Tục • Điển Vi • Đới Lăng • Giả Quỳ • Giả Tín • Gia Cát Đản • Hạ Hầu Đôn • Hạ Hầu Hiến • Hạ Hầu Mậu • Hạ Hầu Nho • Hạ Hầu Thượng • Hạ Hầu Uyên • Hạ Hầu Vinh • Hác Chiêu • Hàn Hạo • Hàn Tống • Hầu Âm • Hầu Thành • Hoàng Hoa • Hồ Liệt • Hồ Phấn • Hồ Tuân • Hứa Chử • Hứa Nghi • Khiên Chiêu • Lã Khoáng • Lã Kiền • Lã Thường • Lã Tường • Lâu Khuê • Lộ Chiêu • Lỗ Chi • Lưu Đại • Lưu Huân • Lý Điển • Lý Phụ • Lý Thông • Mãn Sủng • Ngô Chất • Ngô Đôn • Ngưu Kim • Ngụy Bình • Ngụy Tục • Nhạc Lâm • Nhạc Tiến • Nhâm Tuấn • Phí Diệu • Quách Hoài • Quán Khâu Kiệm • Sư Toản • Sử Hoán • Tang Bá • Tào Chân • Tào Chương • Tào Hồng • Tào Hưu • Tào Nhân • Tào Sảng • Tào Thái • Tào Thuần • Tào Triệu • Tần Lãng • Tất Quỹ • Thái Dương • Thành Công Anh • Thân Nghi • Tiên Vu Phụ • Tiêu Xúc • Tô Tắc • Tôn Lễ • Tôn Quán • Tống Hiến • Trần Thái • Triệu Ngang • Triệu Nghiễm • Triệu Tiển • Trương Cáp • Trương Đặc • Trương Hổ • Trương Liêu • Trương Tú • Tư Mã Vọng • Từ Hoảng • Văn Hổ • Văn Khâm • Văn Sính • Văn Thục • Vu Cấm • Vương Bí • Vương Kinh • Vương Lăng • Vương Song • Vương Sưởng • Vương Trung • Xương Hi
Thục Hán
Bàng Hi • Cao Tường • Câu Phù • Diêm Vũ • Đặng Chi • Gia Cát Chiêm • Gia Cát Thượng • Hạ Hầu Bá • Hạ Hầu Lan • Hoàng Trung • Hoàng Quyền • Hoắc Dặc • Hoắc Tuấn • Hồ Tế • Hướng Sủng • Khương Duy • La Hiến • Liêu Hóa • Liễu Ẩn • Lôi Đồng • Lôi Tự • Lưu Bàn • Lưu Mẫn • Lưu Phong • Lưu Tuần • Lưu Ung • Lý Khôi • Mã Đại • Mã Siêu • Mã Tắc • Mã Trung • Mạnh Đạt • Mạnh Hoạch • Nghiêm Nhan • Ngô Ban • Ngô Lan • Ngô Ý • Ngụy Diên • Phí Quán • Phó Dung • Phó Thiêm • Phụ Khuông • Phùng Tập • Quan Bình • Quan Hưng • Quan Vũ • Sa Ma Kha • Tập Trân • Thân Đam • Trác Ưng • Trần Đáo • Trần Thức • Triệu Lũy • Triệu Vân • Trương Dực • Trương Nam • Trương Ngực • Trương Phi • Tưởng Bân • Tưởng Thư • Viên Lâm • Vương Bình • Vương Hàm • Vương Tự
Đông Ngô
Bộ Cơ • Bộ Hiệp • Bộ Xiển • Cam Ninh • Chu Cứ • Chu Dận • Chu Du • Chu Dị • Chu Hoàn • Chu Nhiên • Chu Phường • Chu Tài • Chu Thái • Chu Thiệu • Chu Xử • Chung Ly Tuân • Cố Dung • Cố Thừa • Cốc Lợi • Đào Hoàng • Đào Tuấn • Đinh Phong • Đinh Phụng • Đổng Tập • Đường Tư • Gia Cát Dung • Gia Cát Tịnh • Hạ Đạt • Hạ Tề • Hàn Đương • Hoàng Cái • Kỷ Chiêm • Lã Cứ • Lã Đại • Lã Khải • Lã Mông • Lã Phạm • Lăng Tháo • Lăng Thống • Lỗ Thục • Lục Cảnh • Lục Dận • Lục Kháng • Lục Tốn • Lục Yến • Lưu A • Lưu Bình • Lưu Lược • Lưu Tán • Lưu Toản • Lý Dị • Lý Úc • Mã Mậu • Mã Trung • My Phương • Ngô Cảnh • Ngô Ngạn • Ngu Tiện • Ngu Trung • Nhuế Huyền • Phan Chương • Phan Lâm • Phạm Cương • Quách Mã • Sĩ Nhân • Tạ Tinh • Thái Sử Từ • Thẩm Oánh • Thi Tích • Tiên Vu Đan • Toàn Dịch • Toàn Đoan • Toàn Tông • Toàn Tự • Tô Phi • Tổ Lang • Tổ Mậu • Tôn Ân • Tôn Bí • Tôn Cảo • Tôn Chấn • Tôn Di • Tôn Dị • Tôn Du • Tôn Hâm • Tôn Khải • Tôn Lãng • Tôn Lân • Tôn Hà • Tôn Hiệu • Tôn Hoàn • Tôn Hoán • Tôn Phụ • Tôn Thiều • Tôn Tịnh • Tôn Tuấn • Tôn Tùng • Tống Khiêm • Trần Biểu • Trần Tu • Trần Vũ • Trình Phổ • Trịnh Trụ • Trương Bố • Trương Đạt • Tu Doãn • Tu Tắc • Từ Côn • Từ Thịnh • Tưởng Khâm • Vu Thuyên • Vương Đôn
Tây Tấn
Chu Tuấn • Dương Hỗ • Dương Tắc • Dương Tông • Dương Triệu • Đỗ Dự • Đổng Nguyên • Đường Bân • Gia Cát Tự • Hồ Uyên • Khiên Hoằng • Lý Tùng • Mã Long • Mao Cảnh • Mạnh Cán • Thạch Bao • Thoán Năng • Trần Khiên • Tôn Tú • Tuân Khải • Tư Mã Dung • Tư Mã Lượng • Tư Mã Phụ • Tư Mã Trụ • Tư Mã Tuấn • Vương Hồn • Vương Tố • Vương Tuấn
Khác
Trương Bảo • Trương Lương • Trương Yên • Mã Nguyên Nghĩa • Hoàng Phủ Tung • Chu Tuấn • Hà Tiến • Đinh Nguyên • Từ Cầu • Hoa Hùng • Chủng Tập • Chủng Thiệu • Bào Tín • Kỷ Linh • Kiều Nhuy • Lôi Bạc • Trần Lan • Văn Xú • Nhan Lương • Khúc Nghĩa • Lý Thôi • Quách Dĩ • Trương Tế • Phàn Trù • Đoàn Ổi • Từ Vinh • Hồ Chẩn • Dương Định • Tào Báo • Lưu Tích • Giả Long • Trương Nhiệm • Lưu Khôi • Dương Ngang • Dương Nhiệm • Biên Chương • Bắc Cung Ngọc • Lý Văn Hầu • Thuần Vu Quỳnh • Viên Hi • Cao Cán • Cao Thuận • Thành Liêm • Tào Tính • Hác Manh • Trương Tiện • Liễu Nghị • Trách Dung • Hầu Tuyển • Trình Ngân • Trương Hoành • Thành Nghi • Lý Kham • Mã Ngoạn • Dương Thu • Lương Hưng • Lý Mông • Vương Phương • Đổng Thừa • Dương Phụng • Hàn Tiêm • Lã Giới • Vương Uy • Hoàng Tổ
Khác
Bàng Đức Công • Chu Bất Nghi • Chu Kiến Bình • Chu Quần • Chu Tuyên • Đỗ Quỳ • Đổng Phụng • Điêu Thuyền • Hạ Hầu Xứng • Hoa Đà • Hoàng Phủ Mật • Hoàng Thừa Ngạn • Hồ Chiêu • Mã Hưu • Mã Thiết • Lã Hưng • Lưu Huy • Mã Quân • Nễ Hành • Quản Lộ • Tả Từ • Tào Bất Hưng • Tào Thực • Tào Xung • Thành Tế • Tuân Sảng • Tuân Xán • Tống Trọng Tử • Tôn Thiệu • Triệu Nguyệt • Trịnh Huyền • Nhâm An • Trương Bao • Trương Tiến • Trương Trọng Cảnh • Tư Mã Huy • Vương Bật
Liên quan