Chùa Thầy

Chùa Thầy
Chùa Thầy
Map
Vị trí
Toạ độ21°01′22″B 105°38′44″Đ / 21,02279°B 105,645493°Đ / 21.022790; 105.645493
NúiNúi Thầy
Quốc giaViệt Nam
Địa chỉSài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội
Thông tin
Tôn giáoPhật giáo
Tông pháiThiền Ti-ni-đa-lưu-chi
Khởi lậpChùa được xây dựng từ thời nhà Lý
Quản lýGiáo hội Phật giáo Việt Nam
Di tích quốc gia đặc biệt
Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách
Phân loạiDi tích lịch sử – văn hóakiến trúc nghệ thuật
Ngày công nhận31 tháng 12, 2014
Quyết định2408/QĐ-TTg
 Cổng thông tin Phật giáo
  • x
  • t
  • s

Chùa Thầy (chữ nôm:㕑偨) là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.

Lịch sử

Cùng với chùa Tây Phương và Chùa Hương, Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội. Nếu như Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.

Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự 嵿山寺) trên núi và chùa Dưới, tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự (天福寺). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng.

Truyền thuyết Hóa thân chuyển thế

Đây là một khái niệm trong Phật giáo liên quan tới luân hồi, tuy nhiên chỉ được hiện thực hóa rõ ràng trong phái Kim Cang Thừa tại Tây Tạng khởi nguyên của việc hóa thân này cũng là thế kỷ 11 cùng thời với Tổ Từ Đạo Hạnh. Có ít nhất 2 vị vua được cho là hóa thân của Từ Đạo Hạnh:

Kiến trúc

Phần chính của chùa Thầy được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Phật hậu Thánh , Thánh ở đây là Từ Đạo Hạnh một vị danh tăng nổi tiếng dưới thời Lý. Chùa gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất. Đặc biệt kiến trúc chùa chỉ có 36 lỗ đục các tấm gỗ được xếp chồng lên nhau cực kỳ vững chắc.

Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn,Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý thần Tông còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ 18 đời vua Lê Ý Tông,

Xung quanh chùa có hai dãy hành lang phía sau có lầu chuông, lầu trống. tương truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa,

Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng. Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.

Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.

Điêu khắc trong chùa

Chùa thượng của chùa Thầy, Đại Hùng bảo điện

Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.

Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.

Các pho tượng đẹp nhất của chùa Thầy tập trung tại chùa Trên.

Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung. Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn mật phùng. Ba pho tượng mỗi pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt.

Dưới đó, chính giữa là tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong kiếp Phật. Tượng được tạc vào thế kỉ 19, khuôn mặt khắc khổ, nổi rõ mạch máu, ngồi xếp bằng tròn trên một bệ hoa sen còn lại từ đời Lý. Bệ hoa sen đặt trên một con sư tử cuộn tròn, dưới con sư tử là một bệ bát giác. Hiện nay tượng được đội mũ hoa sen và khoác áo vàng.

Toàn bộ ba pho Di Đà và tượng Từ Đạo Hạnh đặt trên một bệ đá hai tầng, được làm vào thời nhà Trần. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda.

Tượng Từ Đạo Hạnh tại chùa Thầy

Bên phải là tượng Thiền sư ở kiếp Vua. Tương truyền Từ Đạo Hạnh sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Bên trái có tượng Từ Đạo Hạnh trong kiếp Thánh, ngồi trong một khám gỗ chạm trổ cầu kì. Tượng này có cốt bằng tre, có thể cử động. Tương truyền xưa kia mỗi khi mở cửa khám thì tượng tự động nhỏm dậy chào. Sau một vị quan triều Nguyễn nói rằng "Thánh thì không phải chào ai cả", nên tháo hệ thống khớp nối, từ đó tượng ngồi yên. Pho tượng này thể hiện nghệ thuật làm rối nước của dân gian.

Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải.

Trước tượng Từ Đạo Hạnh ở chính giữa có một bàn thờ gỗ chạm trổ rất đẹp. Xưa kia nền đất còn thấp, người thắp hương vịn vào bàn thờ tạo thành một chỗ hõm rất lớn. Trong chùa Thượng còn có hai cây cột làm bằng loại gỗ quý là gỗ Ngọc am.

Hệ thống chùa trên núi

Toàn cảnh Thủy đình, 2 bên là cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên
Bàn thờ Thừa tướng Lữ Gia bên trong hang Cắc Cớ, thuộc địa phận khu di tích chùa Thầy

Qua cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn TrựcNguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.

Phía trên chùa Cao, trên đỉnh núi có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.

Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại:

Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.Dưới hang gió có một lối đi nhỏ là hang của Bác ngày xưa xuống để phòng ngự đánh giặc.

Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Truyền thuyết ở khu vực chùa Bối Am, thuộc phạm vi căn cứ Đỗ Động Giang xưa cho biết: Trước kia có một toán quân của Lã Đường tự Lã Tá Công, một trong Thập nhị sứ quân, bị vây hãm trong hang núi và bị chết đói hết cả.[1] Điều này chứng tỏ đã có một cuộc tấn công của sứ quân Lữ Đường tới lãnh địa sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, chiếm đóng tại đây.

Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau.

Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".

Di sản văn hóa

Nằm ở xứ Đoài, nơi ít bị ảnh hưởng trong suốt hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm, là một trong những trung tâm phật giáo cổ và lớn nhất gần Kinh đô Thăng Long, với quan hệ đặc biệt với các Hoàng gia triều Lý, hậu Lê nên chùa Thầy có số lượng di sản văn hóa vừa nhiều về số lượng vừa trải đều qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn. Đây là ngôi chùa có tính bảo lưu một cách liên tục nhất các di vật văn hóa, nghệ thuật từ thời Lý.

Di sản Số lượng Niên đại Lai lịch Ghi chú
Cột gỗ Kim Giao 2 2 cây cột nằm trên chùa Thượng của chùa Thiên Phúc, đây là 2 cây cột cái nguyên bản bằng gỗ quý từ khi xây chùa vẫn đượ giữ lại sau các đợt trùng tu, có tuổi khoảng hơn 940 năm. Đây là cấu kiện kiến trúc bằng gỗ cổ nhất Việt nam
Bệ đá Tượng Tổ Sư 1 gồm 1 tòa sen phía trên của một con sư tử cuộn tròn, phía dưới là phần chân đế, đây là tòa sen đá thời Lý còn nguyên vẹn hiếm có tại Việt Nam
Tảng đá trấn trạch 2 Từ Đạo Hạnh đích thân làm 1 tảng đá ở phía sau cung thờ vua Lý Thần Tông, 1 tảng đá phía nền của chùa Trung, tương truyền do tổ sư Từ Đạo Hạnh "trấn" để cho Long Vương không dâng nước cuốn gỗ của chùa và kẻ trộm không nhòm ngó được các đồ của nhà chùa, người dân thường xua các tảng đá này để cầu may
Chuông đồng lớn 1 Lý, Long Phù Nguyên Hòa Thứ 9 (1109) đã bị phá hủy
Bệ đá kép "Bách Hoa Đài " 1 Trần đây là một trong 7 bệ đá đời Trần ở Việt nam, bệ này là bệ lớn nhất về kích thước và là bệ đá "kép" gồm 2 tầng duy nhất còn tồn tại
Nhang án 7 Lê Sơ TK.15-16 cái cổ nhất là ở gian giữa Thượng Điện chùa Thiên Phúc (Cả), khoảng 500 năm, mép bên phải bị vẹt và nhẵn vì tay người đã vịn vào khi dâng hương lễ Phật
Sập thờ 1 TK.17 bằng gỗ, gian thờ Vua ở tòa điện Thánh, cao 0.65m, dài 1.7m, rộng 1.25m, chủ yếu là hoa văn Như Ý
Bộ tượng Di đà Tam Tôn 1 năm 1602 đời Mạc Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan cúng tiến Bảo vật Quốc gia từ năm 2015, gồm 3 tượng: Phật A di đà, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, đây là bộ tượng cổ nhất cùng loại, làm bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, cổ các tượng khắc chuỗi anh lạc vô cùng tinh xảo
Tượng vua Lý Thần Tông 1 năm 1735 đời Lê Trung Hưng Vua Lê Ý Tông cúng tiến gian bên Trái, Thượng Điện chùa Cả, Tuy nói là Vua Lý Thần Tông nhưng Tượng tạc vào TK.18 và tương truyền miêu tả hình dáng vua Lê Thần Tông, đây là bức tượng do Hoàng gia đứng đầu là vua bấy giờ tiến cúng nên vô cùng quý giá.
Phượng Hoàng cuốn thư (gỗ) 3 năm 1735 đời Lê Trung Hưng gian bên Trái, Thượng điện chùa Cả, cao 2.3m
Tượng Phỗng 2 năm 1735 đời Lê Trung Hưng gian bên Trái, Thượng điện chùa Cả
Hạc gỗ 2 TK.18 Thượng Điện chùa cả (tòa điện thánh)
Sập thờ 1 cung thờ Lý Thần Tông, cao 2.45m
Khám thờ 1 TK.16 Cung thờ Thánh bên phải tòa điện thánh, khám cao 3m dài và rộng 1.83m
Tượng thân xá lợi Thánh Từ Đạo Hạnh 1 TK.16 Nguyên trước đây là thân người thật của Thánh, nhưng khi quân Minh (tk.15) sang xâm lược đã đốt mất, dân dùng mây tre, bện lại mà thành, đặt trong 1 khám thờ cầu kỳ to như cả gian nhà, có dây cơ có thể đứng lên ngồi xuống, sau đó Tổng Đốc Sơn Tây Cao Xuân Dục cho cắt dây rối đi để tỏ lòng kính trọng nhà Thánh.
Tượng Từ Đạo Hạnh (kiếp Phật) 1 TK.19 đời Nguyễn đặt tại gian giữa thượng điện, chùa cả,đặt trên bệ đá cổ thời Lý
Ngai thờ cha mẹ Thánh 1 năm 1346 đời Trần Người coi điện Đinh Thiện làng Trung Thụy xã Đô Minh Cẩm nằm trên điện Khải Thánh của chùa Đính Sơn ở trên núi, đây là di vật hiếm hoi bằng gỗ từ thời Trần, là một trong số di vật quý giá nhất ở chùa, làm ngày 25.10 năm Bính Tuất (1346) năm Thiệu Phong đời vua Trần Dụ Tông khắc hình "Sừng Tê Ngọc Báu " lồng Lá Đề
Đạo sắc phong 26 TK.17 đến TK.20 Các năm ban sắc phong: 1637, 1638, 1639, 1642, 1645, 1647, 1649, 1653, 1671, 1674, 1711, 1730, 1740, 1767, 1784, 1787, 1789, 1793, 1802, 1821, 1839, 1852, 1881, 1909, 1925.
Rồng đá 4 Trần 2 bên Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều
Chuông đồng 1 năm 1794 đời Tây Sơn cao 1.75m, đỉnh rộng 0.44m, miệng rộng 0.93m, quay chuông rồng cuốn đời Lê cao 0.55m
Khánh Đồng 2 1 trên Gác Chuông, 1 dưới tòa chùa Hạ
Tượng Quan Âm Chuẩn Đề 1 TK.18 Đại hùng bảo điện chùa Trung
Tượng Tam Thế 1 TK.16
Tượng Di Lặc 1 TK.19
Tượng Thích Ca sơ sinh 1 TK.19
Các tượng khác Tk.17-20
  • Chùa Thượng: Thích Ca, Cửu Long
  • Chùa Trung: Tam thế, Tuyết Sơn, Di Đà, Quan Âm, Địa Tạng Thập Điện Diêm Vương, Nam tào, Bắc Đẩu, khuyến Thiện, Trừng Ác, Tứ Trấn Thiên Vương, Bát Bộ Kim Cang, Chúa Ông (2 pho), già Lam, Chân Tể, Thánh hiền, Diệm Nhiên, Đại sĩ...
  • Hành Lang: Thổ Địa, giám Trai, Thập Bát La Hán...khám thờ Tứ Ân
  • Nhà Tổ: Từ Đạo Hạnh, Đạt Ma, Quan âm tống tử, các tổ sư, tam tòa thánh mẫu, sơn thần, các bà chúa Mạc bằng đá (tượng hậu)... Ngai Thờ,
  • Đền Tam Phủ: Ngọc Hoàng, Diêm Vương, Long Vương,
  • Chùa Đính Sơn: Thánh Phụ, Thánh Mẫu, Di Lặc, Tam thế, Thất Phật, Chuẩn Đề, Từ Đạo Hạnh, Các Tổ Sư, Ngọc Hoàng, Tam Tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị Tôn Quan, Trần Triều, Sơn Trang, Tứ phủ quan hoàng, Thánh cô, Thánh Cậu, Sơn Thần...
  • Chùa Một Mái: Tam Thế, Chuẩn Đề, Cửu Long, Phạm Vương, Đế Thích, Khuyến Thiện, Trừng Ác, Thánh Hiền, Chúa Ông, Sư Tổ, Tứ Phủ Công Đồng,...
  • Đền Thượng: Sơn Tinh, Văn Xương, Quan Thánh Đế Quân, Khám thờ và bài vị Trần Hưng Đạo, sáu cái nhang án, 3 ngai thờ...
Bia đá 7 TK.17-18 cổ nhất là tấm: "Thiên Phúc Tạo Tự Bi ", năm Thịnh Đức thứ nhất 1653, các năm: 1653, 1666, 1673, 1683, 1672, 1717
Ngựa gỗ 2 1 Hồng mã, 1 bạch mã, ít khi thấy ở các chùa
Khác
  • 8 giá kiếm, đao, chấp kích TK.17;
  • Cung thờ Vua Lý Thần Tông có: tiêu sáo, hòm sách, 4 thanh đao, 1 thanh kiếm, 2 gậy, 1 chùy, 1 việt phủ....TK.17;
  • Hệ thống hoành phi: Đại Hùng Bảo Điện (chùa thượng), Chư Phật Hải Hội (chùa trung)... cùng nhiều hoành phi, câu đối, cửa võng, bát nhang, án gian, kiệu, long đình, bát bửu, đồ tế khí, chấp kích, lọng,....

Lễ hội và văn hóa

Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.

Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:

Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
Về văn hóa, Chùa thầy có truyền thống nghìn năm về văn hóa. Nơi đây đã sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú làm sáng danh lịch sử nước nhà.

Các đời trụ trì

  • Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh Thiền sư
  • Đại sa môn Huệ Hưng
  • Thiên Phúc Hòa thượng, Tỳ Kheo An Thiền
  • Lan Hương trụ trì: 1897-1900
  • Hoà Thượng Minh Tâm trụ trì: 1900 - 1906
  • Hòa thượng Thích Thanh Mậu - Sơn Tăng Như Tùng - Thích Thanh Thi (1900 - 1945)
  • Hòa Thượng Thích Tâm Quyến, viên tịch năm 1984 Là Sư Huynh Của Trưởng Lão HT Thích Thanh Bích
  • Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002) trụ trì: 1984 - 2002
  • Đại Đức Thích Minh Hiển (Trụ trì Thiên Phúc Tự - Chùa Thầy hay chùa Cả), Đại Đức Thích Đạo Vĩnh, Đại Đức Thích Minh Đạo (Trụ trì Đỉnh Sơn Tự - Hiển Thụy Am - Chùa Cao), Thượng Tọa Thích Minh Hà (trụ trì Bối Am Tự - chùa Một Mái), Thượng Toạ Thích Minh Xuân (trụ trì chùa Long Đẩu), Thích Đạo Khuê

Tham khảo

  1. ^ “Di tích Hà Tây”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2014.

Xem thêm


Liên kết ngoài

  • Khu danh thắng chùa Thầy
  • Lễ hội
  • Du lịch chùa Thầy
Hình tượng sơ khai Bài viết liên quan đến kiến trúc đền, chùa, tu viện Phật giáo tại Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s
  • x
  • t
  • s
Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam
Trung du và
miền núi phía Bắc
(29 di tích)

ATK Chợ Đồn · ATK Định Hóa · ATK II Hiệp Hòa · Bạch Đằng · Chi Lăng · Chùa Bổ Đà · Chùa Vĩnh Nghiêm · Đền Cửa Ông · Đền Hùng · Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 · Địa điểm Chiến thắng Xương Giang · Điện Biên Phủ · Đình Trà Cổ · Hồ Ba Bể · Khu BTTN Na Hang – Lâm Bình · KDT cách mạng Việt Nam – Lào · KDT khởi nghĩa Bắc Sơn · KDT khởi nghĩa Yên Thế · KDT Kim Bình · KDT nhà Trần tại Đông Triều · Khu lưu niệm Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô · Nhà tù Sơn La · Pác Bó · Ruộng bậc thang Mù Cang Chải · Rừng Trần Hưng Đạo · Tân Trào · Thương cảng Vân Đồn · Vịnh Hạ Long · Yên Tử



Thủ đô Hà Nội
(21 di tích)
Đồng bằng sông Hồng
(trừ Hà Nội,
26 di tích)
Bắc Trung Bộ
(19 di tích)

Cố đô Huế · Di tích lưu niệm Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế · Đền Bà Triệu · Đền thờ Lê Hoàn · Đền thờ Mai Hắc Đế · Địa đạo Vịnh Mốc · Đình Hoành Sơn · Đường Trường Sơn · Hang Con Moong · Hiền Lương – Bến Hải · KDT Kim Liên · KDT Nguyễn Du · KDT Phan Bội Châu · Lam Kinh · Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Xí · Sầm Sơn · Thành cổ Quảng Trị · Thành nhà Hồ · VQG Phong Nha – Kẻ Bàng

Khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh · Đền Tây Sơn Tam Kiệt · Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh · Gành Đá Đĩa · KDT khởi nghĩa Ba Tơ · KDT khảo cổ Cát Tiên · Ngũ Hành Sơn · Nhà đày Buôn Ma Thuột · Phật viện Đồng Dương · Phố cổ Hội An · Rộc Tưng – Gò Đá · Tây Sơn Thượng đạo · Thánh địa Mỹ Sơn · Thành Điện Hải · Tháp Dương Long · Tháp Hòa Lai · Tháp Nhạn · Tháp Po Klong Garai

Miền Nam
(17 di tích)

Căn cứ Cái Chanh · Căn cứ Tà Thiết · Căn cứ Trung ương Cục miền Nam · Di tích Chiến thắng Chương Thiện · Dinh Độc Lập · Địa đạo Củ Chi · Địa điểm Chiến thắng Ấp Bắc · Đồng Khởi Bến Tre · Gò Tháp · Rạch Gầm – Xoài Mút · KDT Tôn Đức Thắng · Lăng Nguyễn Đình Chiểu · Mộ cự thạch Hàng Gòn · Nhà tù Côn Đảo · Nhà tù Phú Quốc · Óc Eo – Ba Thê · VQG Cát Tiên

  • Di tích quốc gia đặc biệt
  • Hang động
  • Thác nước
  • Chùa
  • Đình
  • Đền
  • Nhà thờ
  • Tháp cổ
  • Tháp Chăm
  • x
  • t
  • s
Chùa tại các tỉnh
Chùa tại Hà Nội
Chùa tại TPHCM
  • Di tích quốc gia đặc biệt
  • Hang động
  • Thác nước
  • Đèo
  • Chùa
  • Đình
  • Đền
  • Nhà thờ
  • Tháp cổ
  • Tháp Chăm
  • x
  • t
  • s
Du lịch Hà Nội
Di tích lịch sử
Kiến trúc công cộng


Kiến trúc tôn giáo,
tâm linh

Thăng Long tứ trấn (Đền Bạch Mã · Đền Voi Phục · Đền Kim Liên · Đền Quán Thánh) • Thăng Long tứ quán • Chùa Hương • Chùa Láng • Chùa Một Cột • Chùa Tây Phương • Chùa Thầy • Chùa Trầm • Chùa Trấn Quốc • Chùa Quán Sứ • Đền Sóc - Chùa Non Nước • Phủ Tây Hồ • Đại chủng viện Thánh Giuse • Đền Ngọc Sơn • Đền Lý Quốc Sư • Đền Hai Bà Trưng (Đồng Nhân) • Đền Hai Bà Trưng (Hạ Lôi) • Đền Hát Môn • Đền Phù Đổng • Nhà thờ Lớn • Nhà thờ Hàm Long • Nhà thờ Cửa Bắc • Nhà thờ Phùng Khoang • Đình Chèm • Đình Đại Phùng • Đình Hạ Hiệp • Đình So • Đình Tây Đằng • Đình Tường Phiêu

Hồ, công viên,
khu sinh thái
Bảo tàng
Làng nghề
Công trình
thể thao
Công trình
thương mại - dịch vụ
Khách sạn

Hilton Hanoi Opera • Khách sạn Opera Hà Nội • Khách sạn Sofitel Metropole

Các công
trình khác
Du lịch Việt Nam

7 khu du lịch quốc gia • An Giang • Bà Rịa – Vũng Tàu • Bạc Liêu • Bắc Giang • Bắc Kạn • Bắc Ninh • Bến Tre • Bình Dương • Bình Định • Bình Phước • Bình Thuận • Cà Mau • Cần Thơ • Cao Bằng • Đà Nẵng • Đắk Lắk • Đắk Nông • Điện Biên • Đồng Nai • Đồng Tháp • Gia Lai • Hà Giang • Hà Nam • Hà Nội • Hà Tĩnh • Hải Dương • Hải Phòng • Hậu Giang • Hòa Bình • Thành phố Hồ Chí Minh • Hưng Yên • Khánh Hòa • Kiên Giang • Kon Tum • Lai Châu • Lạng Sơn • Lào Cai • Lâm Đồng • Long An • Nam Định • Nghệ An • Ninh Bình • Ninh Thuận • Phú Thọ • Phú Yên • Quảng Bình • Quảng Nam • Quảng Ngãi • Quảng Ninh • Quảng Trị • Sóc Trăng • Sơn La • Tây Ninh • Thái Bình • Thái Nguyên • Thanh Hóa • Thừa Thiên Huế • Tiền Giang • Trà Vinh • Tuyên Quang • Vĩnh Long • Vĩnh Phúc • Yên Bái