Tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại

Một phần của loạt bài viết về
Tôn giáo
Lưỡng Hà cổ đại
Quái vật hỗn mang và Thần mặt trời
Quái vật hỗn mang và Thần mặt trời
  • Tôn giáo Cận Đông cổ đại

Thực thể khởi thủy
  • Abzu và Tiamat
  • Lahmu và Lahamu
  • Anshar và Kishar
  • Mummu
Bảy vị thần cai trị
  • Bốn vị chánh thần
    • Anu
    • Enlil
    • Enki
    • Ninhursag
  • Ba vị thần thiên giới
    • Inanna/Ishtar
    • Nanna/Sin
    • Utu/Shamash
Chư vị đại thần
  • Adad
  • Dumuzid
  • Enkimdu
  • Ereshkigal
  • Kingu
  • Geshtinanna
  • Lahar
  • Marduk
  • Nergal
  • Ninurta
Chư vị hạ thần
  • Agasaya
  • Anunnaki
  • Asaruludu
  • Ashnan
  • Bel
  • Enbilulu
  • Isimud
  • Lahar
  • Mami/Nintu
  • Mamitu
  • Nabu
  • Namtar
  • Nanshe
  • Nisaba
  • Ningal
  • Ninkasi
  • Ninlil
  • Ninshubur
  • Ninsun
  • Nuska
  • Sarpanit
  • Uttu
Á thần và anh hùng
  • Adapa
  • Enkidu
  • Enmerkar
  • Gilgamesh
  • Lugalbanda
  • Shamhat
  • Siduri
  • Atra-Hasis
  • Apkallu (thất hiền)
Linh dị thần quái
  • Udug
  • Lamassu/Shedu
  • Asag
  • Edimmu
  • Siris
  • Anzû
  • Humbaba
  • Asag
  • Hanbi
  • Kur
  • Lamashtu
  • Pazuzu
  • Rabisu
  • x
  • t
  • s

Tôn giáo Lưỡng Hà chỉ các tín ngưỡng và tập tục tôn giáo của các nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại, cụ thể là Sumer, Akkad, AssyriaBabylonia trong khoảng năm 3500 trước Công nguyên đến 400 sau Công nguyên, sau đó phần lớn bị thay thế bởi Kitô giáo Syria. Sự phát triển tôn giáo ở Lưỡng Hà và văn hóa Lưỡng Hà nói chung không bị ảnh hưởng bởi sự di chuyển của các dân tộc khác nhau đến và đi khắp khu vực, đặc biệt là ở phía nam. Thay vào đó, tôn giáo Lưỡng Hà là một truyền thống nhất quán và mạch lạc, phù hợp với nhu cầu nội tại của các tín đồ qua hàng thiên niên kỷ phát triển.[1]

Những khởi nguồn sớm nhất của tư tưởng tôn giáo Lưỡng Hà có từ giữa thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên, có nền tảng từ sự thờ phụng thiên nhiên. Trong thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đối tượng thờ phụng đã được nhân cách hóa và trở thành một nhóm các vị thần với các chức năng cụ thể. Các giai đoạn cuối cùng của đa thần giáo Lưỡng Hà phát triển trong thiên niên kỷ thứ 2 và thứ 1, tập trung hơn vào tôn giáo thờ phụng cá nhân và sắp xếp các vị thần thành một hệ thống phân cấp quân chủ với vị thần quốc gia là người đứng đầu các thần.[1] Tôn giáo Lưỡng Hà cuối cùng bị suy tàn trước sự truyền bá của các tôn giáo Iran thời Đế chế Achaemenes và sự Kitô giáo hóa tại vùng Lưỡng Hà.

Sách tham khảo

  • Bottéro, Jean (2001). Tôn giáo ở Mesopotamia cổ đại. Dịch. Bởi Teresa Lavender Fagan. Chicago: Nhà in Đại học Chicago. ISBN 978-0226067179 Mã số   980-0226067179.
  • Bottéro, Jean (2001b). Cuộc sống hàng ngày ở Mesopotamia cổ đại. Báo chí JHU. ISBN 978-0801868641 Mã số 980-0801868641.
  • Chavalas, Mark W. (2003). Mesopotamia and the Bible. Continuum International Publishing Group. ISBN 978-0-567-08231-2.
  • Davies, Owen (2009). Grimoires: Lịch sử Sách ma thuật. New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
  • Moorey, Peter Roger Stuart (1991). A Century of Biblical Archaeology. Westminster John Knox Press. ISBN 978-0-664-25392-9.
  • Schneider, Tammi (2011). Giới thiệu về tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại. Grand Rapids: Công ty xuất bản William B. Eerdmans.
  • Ringgren, Helmer (1974). Các tôn giáo của Cận Đông cổ đại, được dịch bởi John Sturdy. Philadelphia: Nhà báo Westminster.
  • Meador, Betty De Shong (2000). Inanna, Lady of Heartestest. Austin: Nhà in Đại học Texas. ISBN 978-0-292-75242-9 Mã số   980-0-292-75242-9

Liên kết ngoài

  • Các vị thần và nữ thần Mesopotamian cổ đại
  • Danh sách đầy đủ các vị thần Mesopotamian (Từ điển bách khoa lịch sử cổ đại)

Dẫn nguồn

  1. ^ a b “Mesopotamian religion”. Britannica.
  • x
  • t
  • s
Địa lý
Hiện đại
Cổ đại
Con dấu hình trụ thời Lưỡng Hà cổ đại
Lịch sử
Tiền sử
  • Acheul
  • Moustier
  • Zarzi
  • Natuf
  • PPNA
  • PPNB
  • Halaf
  • Samarra
  • Ubaid
  • Uruk
  • Jemdet Nasr
Lịch sử
Các ngôn ngữ
Văn hóa / Xã hội