Bộ Binh (bộ)

Bộ Binh
Tên tiếng Trung
Tiếng Trung兵部
Nghĩa đenCục quân sự
Cục Chiến tranh
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữBīngbù
Wade–GilesPing Pu
Tên tiếng Mãn
Bảng chữ cái tiếng Mãn ᠴᠣᡠᡥᠠᡳ ᠵᡠᡵᡤᠠᠨ
Möllendorffcoohai jurgan

Bộ Binh hay Binh bộ (tiếng Trung: 兵部) là một cơ quan hành chính thời phong kiến tại một số quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam v.v, một trong sáu bộ của lục bộ, tương đương với bộ Quốc phòng ngày nay. Quan đứng đầu Binh bộ là Binh bộ thượng thư (thượng thư bộ Binh), tương đương với bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay.

Lịch sử

Tại Trung Quốc, bộ Binh được lập ra từ thời kỳ Tùy[1]-Đường, quản lý các công việc như tuyển dụng võ quan và ghi chép binh lính, khí giới, quân lệnh. Quan đứng đầu là thượng thư (tương đương bộ trưởng), giúp việc có thị lang (tương đương thứ trưởng).

Tên gọi bộ Binh được duy trì cho tới tận cuối thời Thanh, nhưng quyền lực của bộ này giữa các thời kỳ thì không có sự tương đồng. Thời kỳ Tống, Liêu, Kim, Nguyên thì bộ Binh không quản lý việc binh. Thời nhà Minh, Binh bộ thượng thư còn gọi là [bản binh], với quyền lực trọng yếu, quản lý công việc kén chọn, huấn luyện quan quân. Thời nhà Thanh, binh bộ quản lý tuyển dụng quan võ, theo dõi ghi chép quân số, khí giới v.v nhưng không can thiệp vào binh quyền. Năm Quang Tự thứ 32 (1906), nhà Thanh tuyên bố "phỏng hành hiến chánh", đổi Bộ Binh thành Bộ Lục quân, sau lập thêm Bộ Hải quân. Tên gọi Binh bộ bị bãi bỏ.

Cơ cấu

Nhà Đường

Quản lý bộ Binh có: thượng thư 1 người, hàm chánh tam phẩm; thị lang 2 người hàm chánh tứ phẩm hạ[2]. Bộ Binh quản lý các công việc như tuyển chọn quan võ, địa đồ, xe ngựa, áo giáp, khí giới. Bộ này được chia làm 4 bộ phận (4 ti) gồm: Binh bộ ti, Chức phương ti, Giá bộ ti, Khố bộ ti.

Đến niên hiệu Long Sóc thứ hai (662)[1] thời Đường Cao Tông, đổi Binh bộ ti thành ti nhung, Chức phương ti thành ti thành, Giá bộ thành ti dư, Khố bộ thành ti khố. Đến niên hiệu Quang Trạch thứ nhất (684)[1] thời Đường Duệ Tông, đổi Binh bộ ti thành hạ quan, năm Thiên Bảo thứ 11 (752)[1] thời Đường Huyền Tông tái lập võ bộ ti, giá bộ ti thành ti giá. Thành phần quan chức làm việc tại mỗi ti như sau:

  • Binh bộ ti: Binh bộ chủ sự 4 người, lệnh sử 30 người, thư lệnh sử 60 người, chế thư lệnh sử 13 người, giáp khố lệnh sử 12 người, đình trưởng 8 người, chưởng cố 12 người.
  • Chức phương ti: Chức phương chủ sự 2 người, lệnh sử 4 người, thư lệnh sử 9 người, chưởng cố 4 người
  • Giá bộ ti: Giá bộ chủ sự 2 người, lệnh sử 10 người, thư lệnh sử 24 người, chưởng cố 4 người
  • Khố bộ ti: Khố bộ chủ sự 2 người, lệnh sử 7 người, thư lệnh sử 15 người, chưởng cố 4 người[2].

Nguyên-Mông

Thời kỳ đầu, quản lý bộ Binh có thượng thư 3 người hàm chánh tam phẩm, thị lang 2 người hàm chánh tứ phẩm, lang trung 2 người hàm tòng ngũ phẩm, viên ngoại lang 2 người hàm tòng lục phẩm[3]. Năm Trung Thống thứ nhất (1260) thời Nguyên Thế Tổ, lấy Binh, Hình, Công làm hữu tam bộ với thượng thư 2 người, thị lang 2 người, lang trung 5 người, viên ngoại lang 5 người[3]. Năm Chí Nguyên thứ nhất (1271), tách riêng bộ Công, vì thế Binh và Hình là một bộ với thượng thư 4 người, thị lang 3 người, lang trung như cũ, viên ngoại lang 5 người[3]. Năm 1273, lại lập hữu tam bộ[3]. Năm 1275, lại lập Binh Hình bộ với thượng thư 2 người, tỉnh thị lang 2 người, lang trung như cũ, viên ngoại lang 1 người[3]. Năm 1277, lập lục bộ với thượng thư 1 người, thị lang nhưng như cũ, lang trung 1 người, viên ngoại lang nhưng 1 người[3]. Năm 1278, lại hợp thành Binh Hình bộ. Năm 1283, lại lập bộ Binh riêng. Năm 1293, thượng thư, thị lang, lang trung, viên ngoại lang đều 2 người mỗi chức. Năm Chí Trì thứ ba (1323) thời Nguyên Anh Tông, tăng thượng thư thêm 1 người. Trong bộ Binh thì chủ sự 2 người, Mông Cổ tất đồ xích 2 người, lệnh sử 14 người, Hồi Hồi lệnh sử 1 người, khiếp lý mã xích 1 người, tri ấn 2 người, tấu sai 8 người, điển lại 3 người[3].

Tham khảo

  1. ^ a b c d Binh bộ trên Bách độ Toàn thư
  2. ^ a b Âu Dương Tu (歐陽修), Tân Đường thư (新唐書), Quyển 46: Bách quan chí nhất: Binh bộ
  3. ^ a b c d e f g Nguyên sử, quyển 85: Bách quan nhất
  • x
  • t
  • s
Tam tỉnh lục bộ
Trung thư tỉnhThượng thư tỉnhMôn hạ tỉnh

Trung thư lệnh
Trung thư thị lang
Trung thư xá nhân
Hữu tản kỵ thường thị

Thượng thư lệnh
Tả bộc xạ
Hữu bộc xạ
Tả thừa
Hữu thừa

Thị trung (Nạp ngôn)
Môn hạ thị lang
Cấp sự trung
Tả tản kỵ thường thị
Gián nghị đại phu

Lại bộHộ bộLễ bộBinh bộHình bộCông bộ

Lại bộ Thượng thư
Lại bộ thị lang
Lại bộ tư lang trung
Tư phong tư lang trung
Tư huân tư lang trung
Khảo công tư lang trung
Lại bộ tư viên ngoại lang
Tư phong tư viên ngoại lang
Tư huân tư viên ngoại lang
Khảo công tư viên ngoại lang

Hộ bộ Thượng thư
Hộ bộ thị lang
Hộ bộ tư lang trung
Độ chi tư lang trung
Kim bộ tư lang trung
Thương bộ tư lang trung
Hộ bộ tư viên ngoại lang
Độ chi tư viên ngoại lang
Kim bộ tư viên ngoại lang
Thương bộ tư viên ngoại lang

Lễ bộ Thượng thư
Lễ bộ thị lang
Lễ bộ tư lang trung
Từ bộ tư lang trung
Chủ khách tư lang trung
Thiện bộ tư lang trung
Lễ bộ tư viên ngoại lang
Từ bộ tư viên ngoại lang
Chủ khách tư viên ngoại lang
Thiện bộ tư viên ngoại lang

Binh bộ Thượng thư
Binh bộ thị lang
Binh bộ tư lang trung
Chức phương tư lang trung
Giá bộ tư lang trung
Khố bộ tư lang trung
Binh bộ tư viên ngoại lang
Chức phương tư viên ngoại lang
Giá bộ tư viên ngoại lang
Khố bộ tư viên ngoại lang

Hình bộ Thượng thư
Hình bộ thị lang
Hình bộ tư lang trung
Đô quan tư lang trung
Tỉ bộ tư lang trung
Tư môn tư lang trung
Hình bộ tư viên ngoại lang
Đô quan tư viên ngoại lang
Tỉ bộ tư viên ngoại lang
Tư môn tư viên ngoại lang

Công bộ Thượng thư
Công bộ thị lang
Công bộ tư lang trung
Đồn điền tư lang trung
Ngu bộ tư lang trung
Thủy bộ tư lang trung
Công bộ tư viên ngoại lang
Đồn điền tư viên ngoại lang
Ngu bộ tư viên ngoại lang
Thủy bộ tư viên ngoại lang

Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s